Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Fitch cảnh báo rủi ro từ chính sách tiền tệ của Việt Nam

06:48 | 12/10/2018

440 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo Fitch, chính sách tiền tệ của Việt Nam còn quá nới lỏng và có thể tác động lên ổn định vĩ mô. 

Hãng đánh giá tín nhiệm Fitch vừa ra báo cáo phân tích về chính sách tiền tệ của Việt Nam. Theo đó, Fitch dự báo Ngân hàng Nhà nước (SBV) tiếp tục giữ lãi suất tái cấp vốn tại 6,25% trong năm nay và 2019, để cân bằng mục tiêu tăng trưởng và lạm phát.

Hãng này cũng dự báo các nhà hoạch định chính sách áp dụng các biện pháp thắt chặt có chọn lọc, như chỉ đạo siết cho vay hoặc các biện pháp vĩ mô thận trọng. SBV đang dần hiện đại hóa khung chính sách tiền tệ, chuyển dịch theo hướng dùng lạm phát làm neo danh nghĩa (nominal anchor) và tăng tính linh hoạt cho tỷ giá. Tuy vậy, cơ quan này vẫn dùng mục tiêu tăng trưởng tín dụng là công cụ điều hành tiền tệ chính.

Nhìn chung, Fitch nhận định lập trường chính sách tiền tệ của SBV vẫn còn quá nới lỏng, thanh khoản dư thừa. Hiện tại, nó vẫn chưa tác động lên ổn định vĩ mô, nhưng rủi ro đang nghiêng về hướng suy giảm.

Fitch cảnh báo rủi ro từ chính sách tiền tệ của Việt Nam
Công nhân làm việc trong một dự án xây dựng tại Hà Nội. Ảnh: Reuters

Thực tế, SBV đã chuyển sang lập trường thắt chặt hơn từ đầu năm nay, thể hiện qua mục tiêu tăng trưởng tín dụng thấp hơn (17% năm 2018 so với 18% năm 2017). Trên thực tế, tăng trưởng tín dụng 8 tháng đầu năm cũng chỉ còn 8,2%, so với 10,8% cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, SBV đã duy trì lãi suất tái cấp vốn 6,25% trong 15 tháng liên tiếp.

Cơ quan này cũng công bố nhiều quy định thắt chặt về cho vay từ tháng 8. Đến tháng 10, SBV còn chỉ đạo các ngân hàng thương mại duy trì kiểm soát các khoản vay mới trong các lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản, tín dụng tiêu dùng và đầu tư chứng khoán.

Dù vậy, kể cả khi đã áp dụng các biện pháp này, Fitch cho rằng chính sách tiền tệ vẫn còn quá nới lỏng. Lãi suất liên ngân hàng vẫn thấp hơn đáng kể so với lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu, làm hạn chế hiệu quả từ cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ của SBV. Đến ngày 7/10, lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng chỉ là 3,14%, lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn một tháng là 4,11%, trong khi lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu lần lượt là 6,25% và 4,25%.

Việc này một phần do nỗ lực của SBV nhằm gây dựng dự trữ ngoại hối mà không phải can thiệp trung hòa hoàn toàn. Dù lạm phát vẫn tương đối thấp (4% trong hai tháng qua), dư thừa thanh khoản có khả năng đẩy lạm phát lên cao và tăng nợ xấu, do lãi suất có thể bị bóp méo.

Bên cạnh đó, tăng trưởng tín dụng ở mức 17-18% một năm cũng vẫn cao hơn tăng trưởng GDP danh nghĩa (11-12%). Đây là điều cần quan tâm, khi tỷ lệ nợ trên GDP khu vực tư nhân đã lên 130,7% năm 2017 (theo World Bank), từ 96,8% năm 2013. Điều này phản ánh tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào tín dụng. Đây là cách thức không bền vững.

Đòn bẩy trong nền kinh tế Việt Nam cũng cao hơn nhiều các nước trong khu vực, như Philippines (47,8%), Indonesia (38,7%), Campuchia (86,7%) và Malaysia (124%). Fitch cho rằng nếu để các yếu tố bóp méo nền kinh tế tiếp tục phát triển, rủi ro sẽ ngày càng cao khi tín dụng sụt giảm do các cú sốc bên trong và bên ngoài (như sự sụp đổ của thị trường bất động sản năm 2010 – 2012) sẽ mang lại nhiều hậu quả đau đớn hơn. Nền kinh tế có thể tăng trưởng chậm hơn đáng kể và kéo dài hơn so với cuộc khủng hoảng trước trong hệ thống ngân hàng.

Khuyến nghị của Fitch được nhiều chuyên gia Việt Nam cho rằng "có cơ sở" nếu xét trên hai yếu tố là quy mô tín dụng và hệ số an toàn vốn (K). Tiến sĩ Cấn Văn Lực (Trung tâm Nghiên cứu BIDV) bình luận: "Không riêng Fitch, một số tổ chức quốc tế khác như IMF cũng có nhận xét tương tự, rằng Việt Nam cần kiểm soát quy mô và chất lượng tín dụng để đảm bảo hệ thống lành mạnh hơn”, ông Lực nói. Ông phân tích, quy mô tín dụng của Việt Nam đạt khoảng 130% GDP vào cuối năm 2017 và dự báo tăng lên 137-138% GDP năm nay. Ngoài ra, tỷ lệ an toàn vốn hiện khá thấp trong bối cảnh tín dụng tăng 15-16% và vốn chủ sở hữu ngân hàng chỉ tăng 8-9%. Khi hệ số K thấp, sẽ khó đáp ứng chuẩn Basel II thời gian tới.

Cùng quan điểm, ông Phạm Thế Anh - giảng viên Đại học Kinh tế quốc dân cho rằng, cung tiền lớn hơn tăng trưởng sẽ khiến giá cả tăng, không tốt cho nền kinh tế. Theo ông, nếu năm nay tăng trưởng có thể đạt hoặc hơn mức mục tiêu 6,7%, chính sách tiền tệ nên thận trọng hơn để tránh rủi ro lạm phát. “Không cần cố gắng bằng mọi cách để đạt tăng trưởng cao hơn nữa, như vậy rất rủi ro cho nền kinh tế. Nếu đã vượt qua giai đoạn suy giảm, đi vào tăng trưởng ổn định và thực chất thì cần bớt dựa vào tiền tệ, kích thích tín dụng”, ông Thế Anh nói.

Chuyên gia của Đại học Kinh tế quốc dân cũng lưu ý, nếu lạm phát xảy ra thì một trong những cách để chống là tăng lãi suất, như vậy “giá” chống lạm phát sẽ khá đắt. “Lãi suất tăng sẽ làm giảm tăng trưởng trong dài hạn, ảnh hưởng tới sức khoẻ doanh nghiệp. Phòng ngừa lạm phát bao giờ cũng dễ hơn chống lạm phát”, ông nói thêm.

Theo VnExpress.net

Tiền tệ của các thị trường mới nổi mất giá dây chuyền vì khủng hoảng Argentina
Argentina nâng lãi suất lên 60%
Người Venezuela phải dùng ứng dụng để quy đổi tiền
Phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc, nhiều thị trường mới nổi “chông chênh”

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,500 80,500
AVPL/SJC HCM 78,500 80,500
AVPL/SJC ĐN 78,500 80,500
Nguyên liệu 9999 - HN 77,400 77,550
Nguyên liệu 999 - HN 77,300 77,450
AVPL/SJC Cần Thơ 78,500 80,500
Cập nhật: 08/09/2024 17:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 77.200 78.400
TPHCM - SJC 78.500 80.500
Hà Nội - PNJ 77.200 78.400
Hà Nội - SJC 78.500 80.500
Đà Nẵng - PNJ 77.200 78.400
Đà Nẵng - SJC 78.500 80.500
Miền Tây - PNJ 77.200 78.400
Miền Tây - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 77.200 78.400
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 77.200
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 77.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 77.100 77.900
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 77.020 77.820
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 76.220 77.220
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 70.960 71.460
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 57.180 58.580
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 51.720 53.120
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 49.390 50.790
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 46.270 47.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 44.320 45.720
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 31.160 32.560
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 27.960 29.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 24.460 25.860
Cập nhật: 08/09/2024 17:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,645 7,820
Trang sức 99.9 7,635 7,810
NL 99.99 7,650
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,650
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,750 7,860
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,750 7,860
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,750 7,860
Miếng SJC Thái Bình 7,850 8,050
Miếng SJC Nghệ An 7,850 8,050
Miếng SJC Hà Nội 7,850 8,050
Cập nhật: 08/09/2024 17:45
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 78,500 80,500
SJC 5c 78,500 80,520
SJC 2c, 1C, 5 phân 78,500 80,530
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 77,300 78,600
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 77,300 78,700
Nữ Trang 99.99% 77,200 78,200
Nữ Trang 99% 75,426 77,426
Nữ Trang 68% 50,831 53,331
Nữ Trang 41.7% 30,263 32,763
Cập nhật: 08/09/2024 17:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,138.45 16,301.47 16,825.30
CAD 17,766.85 17,946.31 18,522.99
CHF 28,510.62 28,798.61 29,724.01
CNY 3,400.75 3,435.10 3,546.01
DKK - 3,598.10 3,736.07
EUR 26,648.94 26,918.12 28,111.57
GBP 31,610.56 31,929.86 32,955.89
HKD 3,076.58 3,107.66 3,207.52
INR - 292.40 304.11
JPY 167.72 169.42 177.53
KRW 16.02 17.80 19.41
KWD - 80,376.60 83,594.21
MYR - 5,624.37 5,747.33
NOK - 2,271.17 2,367.72
RUB - 260.11 287.95
SAR - 6,535.14 6,796.75
SEK - 2,356.22 2,456.39
SGD 18,476.10 18,662.72 19,262.43
THB 648.49 720.54 748.17
USD 24,400.00 24,430.00 24,770.00
Cập nhật: 08/09/2024 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,500.00 24,510.00 24,850.00
EUR 26,884.00 26,992.00 28,112.00
GBP 31,902.00 32,030.00 33,021.00
HKD 3,102.00 3,114.00 3,219.00
CHF 28,698.00 28,813.00 29,716.00
JPY 167.85 168.52 176.38
AUD 16,305.00 16,370.00 16,878.00
SGD 18,633.00 18,708.00 19,262.00
THB 716.00 719.00 751.00
CAD 17,937.00 18,009.00 18,559.00
NZD 15,101.00 15,608.00
KRW 17.74 19.59
Cập nhật: 08/09/2024 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24440 24440 24770
AUD 16373 16423 16933
CAD 18033 18083 18534
CHF 28949 28999 29566
CNY 0 3438 0
CZK 0 1060 0
DKK 0 3713 0
EUR 27081 27131 27833
GBP 32153 32203 32870
HKD 0 3185 0
JPY 170.18 170.68 176.2
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.3 0
LAK 0 1.015 0
MYR 0 5887 0
NOK 0 2368 0
NZD 0 15116 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2400 0
SGD 18739 18789 19351
THB 0 694.3 0
TWD 0 772 0
XAU 7950000 7950000 8050000
XBJ 7300000 7300000 7620000
Cập nhật: 08/09/2024 17:45