Công ty TNHH MTV Than Mạo Khê - Vinacomin: Yếu tố quyết định sự thành bại
An toàn để sản xuất
Khẩu hiệu trên không lạ trong nhận thức mỗi chúng ta. Với ngành than, an toàn lại càng được chú trọng, càng được chăm lo hơn bất cứ ngành nghề nào. Công ty TNHH MTV Than Mạo Khê - Vinacomin (Đông Triều, Quảng Ninh) được tiếp quản từ tay người Pháp và khôi phục sản xuất từ năm 1954. Sau gần 60 năm hoạt động, Mạo Khê đương nhiên đã trở thành một đơn vị khai thác than với 100% khối lượng hầm lò, thậm chí hầm lò điển hình của Vinacomin.
Ông Nhữ Xuân Hinh, Phó chánh văn phòng công ty cho biết, không như những vỉa khác cùng dải than Đông Triều - Uông Bí, điều kiện địa chất trong khu vực công ty đang quản lý đặc biệt phức tạp. “Do đặc thù của môi trường hầm lò Việt Nam là độ ẩm cao, có nhiều khí bụi nổ và sự xuất hiện, đồng thời của cả khí mê-tan và khí CO2 nên khi khai thác than, nếu không trang bị những thiết bị phòng chống cháy nổ thích hợp, tai nạn do nổ khí mê-tan là điều rất dễ xảy ra.
Trên thực tế, nhiều năm qua, những sự cố sập nổ hầm than đã gây nên những tác hại nặng nề đối với cả con người và tài sản chúng tôi. Bởi vậy, khi các tầng phía trên đã khai thác hết, sản xuất phải xuống sâu, không chỉ chất lượng than khó kiểm soát, dẫn đến giá thành khai thác cao mà nguy cơ tiềm ẩn cháy nổ khí mê-tan, túi nước, áp lực lò và khí độc... càng trở nên khó khống chế hơn”, ông Hinh cho biết. Theo quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đã được phê duyệt, trong những năm sắp tới, than Mạo Khê phải duy trì mức sản lượng 1,8-2 triệu tấn/năm. Đây là một thách thức rất lớn với trên 5.000 người lao động công ty.
Phổ biến tình trạng và thông số kỹ thuật của lò trước giờ sản xuất
Hằng ngày, tại 13 phân xưởng khai thác ở các mức sâu từ hàng chục đến -150m so với mực nước biển... có cả ngàn công nhân vào ca sản xuất. Ngày 11/1/1999, Mạo Khê từng xảy ra một vụ nổ khí mê-tan lớn nhất trong lịch sử khai thác than, làm 19 công nhân thiệt mạng. Công ty lấy đó làm "Ngày an toàn" và hằng năm, thợ mỏ Mạo Khê lại tưởng niệm những đồng đội của mình đã hy sinh trong sự nghiệp sản xuất than và đồng thời nhắc nhở nhau làm tốt hơn nữa công tác an toàn.
Sau vụ nổ, Mạo Khê đã được kiểm định một cách nghiêm túc và sau đó phân cấp lại mỏ, là mỏ hạng 3, hạng đặt trong cảnh báo đặc biệt về khí nổ. Chỉ 1 tháng sau, cũng Mạo Khê tiếp tục là đơn vị đầu tiên lắp đặt hệ thống cảnh báo khí mê-tan tại các vị trí sản xuất. Công tác thông gió được đầu tư bài bản với tổng lưu lượng gió tạo ra để phục vụ cho các đường lò là 228m3/s, trong đó riêng trạm quạt mức +120 có lưu lượng gió tạo ra là 115m3/s. Với việc bố trí khoa học tất cả các đường lò độc đạo đang đào đều được thông gió bằng quạt cục bộ, những đường lò độc đạo có chiều dài lớn đều được sử dụng quạt gió cục bộ có công suất lớn với đường ống gió 0,8-1m.
Điều lạ là càng xuống sâu, mỏ ở đây có độ xuất khí mê-tan càng lớn, lớn đột biến. Hiện kết quả lấy mẫu khí hằng tháng của Trung tâm An toàn mỏ cho thấy, hàm lượng khí mê-tan thoát ra trong các vỉa than ở Mạo Khê lên tới trên 15m3/tấn than khai thác một ngày đêm. Với sản lượng khai thác đến 7-8.000 tấn/ngày đêm như hiện nay, Mạo Khê được xếp hạng “siêu” mỏ về lượng khí nổ và công tác khống chế khí nổ. Công tác kiểm soát khí mê-tan cũng như các biện pháp chống vật phát nổ, đảm bảo an toàn càng đặt ra nghiêm ngặt hơn.
Là đơn vị khai thác than hầm lò, áp lực lò cũng là một vấn đề nan giải. Diện sản xuất của đơn vị ngày càng xuống sâu (cuối ruộng mỏ, nhiều phay, phá), áp lực mỏ lớn, khí và nước nhiều; chiều dày vỉa than, chiều dày đá kẹp trong vỉa thường xuyên biến đổi chỉ có thể áp dụng công nghệ ngang nghiêng (2ANSH - Ukraine), chất lượng than xấu... nên chi phí sản xuất cho một tấn than lớn trong khi giá thành bán ra lại thấp. Để đảm bảo cho các lò chợ hoạt động liên tục, ổn định, các giải pháp tiên tiến về công nghệ, kỹ thuật là phương án duy nhất để đảm bảo công tác an toàn lao động.
Bên cạnh đó, nhằm tạo môi trường làm việc và đi lại thông thoáng cũng như tăng độ ổn định các đường lò dọc vỉa công ty để đưa vì sắt, đồng thời thử nghiệm các vì chống kín 4 mặt hình tròn móng ngựa vào chống giữ nên đã giảm được mét lò xén. Công tác cơ điện - vận tải được thực hiện tốt, đơn vị đã triển khai thiết kế và thi công một số công trình trọng điểm như lắp đặt hệ thống băng tải B1, B2, B3 lò nghiêng V6T tầng -166/+30; lắp đặt bơm cao áp ở hầm bơm trung tâm -150 và 2 tuyến đường ống từ hầm bơm trung tâm -150/-80, hầm bơm trung tâm -80/+17 để bơm nước từ các túi nước ngầm, giảm nguy cơ bục, vỡ... Tất cả đều hướng đến một mục tiêu cao nhất: tối ưu hóa công tác an toàn trong sản xuất điều kiện hầm lò.
Từng bước cải thiện đầu ra
Trong bối cảnh chung của nền kinh tế và toàn Tập đoàn, phải đến khi được điều chỉnh giảm chỉ tiêu sản xuất - kinh doanh, than Mạo Khê mới cán đích năm sản xuất 2012. Có những thời điểm, công ty tồn kho tới gần 200 tỉ đồng tiền than đã gây ứ đọng vốn lưu động, ảnh hưởng vòng quay vốn ngắn hạn. Công ty phải rất vất vả trong việc quan hệ với các tổ chức tín dụng, từ đó thu xếp đủ vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ bản, nộp thuế cũng như thanh toán với bạn hàng, đối tác. Về cơ bản, hệ số bảo toàn vốn năm 2012 vẫn được đảm bảo, đồng thời hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu cũng thấp hơn so với quy định.
Để hoàn thành chỉ tiêu 1,85 tấn than nguyên khai năm 2013, trong quý I, công ty đã duy trì tốt hoạt động của các phân xưởng khai thác và đào lò, với số lò chợ bình quân đạt 13/13 lò chợ, tập trung công tác chăm lo nguồn nhân lực… Để hoàn thành các mục tiêu trong quý II/2013 như: than nguyên khai: 497.000 tấn; mét lò đào: 6.790m; tiêu thụ 411.000 tấn, công ty đã có các biện pháp chỉ đạo tập trung thực hiện công tác an toàn, bảo hộ lao động; sản xuất thi công các công trình theo đúng kế hoạch; nâng cao năng suất chất lượng than đáp ứng nhu cầu tiêu thụ; sử dụng các thiết bị một cách hiệu quả, hợp lý trong dây chuyền sản xuất; tiếp tục triển khai các dự án đầu tư đáp ứng nhu cầu sản xuất và chăm lo đời sống người lao động, bảo vệ môi trường…
Theo kế hoạch, loại than cám 11c, 12a sẽ dừng xuất khẩu đến thị trường Trung Quốc sau khi Nhà máy Nhiệt điện Mạo Khê đi vào hoạt động. Với cự ly gần, đây được coi là giải pháp tuyệt vời trong bối cảnh toàn Tập đoàn cắt giảm chi phí và nỗ lực giảm thiểu tối đa giá thành sản xuất, từ đó gia tăng tỷ suất lợi nhuận.
Hữu Tùng