Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Chỉ báo xấu trên “chứng trường”, bà Thanh Phượng từ bỏ mốc “ngàn tỷ”

06:44 | 12/04/2019

Theo dõi PetroTimes trên
|
Doanh nghiệp chứng khoán do bà Nguyễn Thanh Phượng lãnh đạo – Chứng khoán Bản Việt, trong năm 2018 đã vượt mốc lợi nhuận 1.000 tỷ đồng. Song với những dấu hiệu bất lợi ngay từ đầu năm 2019, một kế hoạch thận trọng đã được doanh nghiệp này đặt ra.

Kết phiên giao dịch 11/4, các chỉ số đã có sự hồi phục đáng kể vào cuối phiên trong bối cảnh bên mua – bên bán vẫn giằng co kịch liệt. Cụ thể, VN-Index tăng 4,04 điểm tương ứng 0,41% lên 129,47 điểm còn HNX-Index tăng 0,14 điểm tương ứng 0,13% lên 107,57 điểm.

Số mã tăng đã nhích lên con số 319 mã và có 42 mã tăng trần vào thời điểm kết thúc phiên trong khi số mã giảm là 283 mã và 24 mã giảm sàn.

Trong bối cảnh chung của thị trường, cổ phiếu VCI của Công ty chứng khoán Bản Việt vẫn ghi nhận giảm 600 đồng tương ứng 1,6% còn 37.000 đồng. Đây là phiên giảm thứ ba liên tiếp của mã này. Trong phiên trước, VCI giảm 1.100 đồng tương ứng 2,84%. Trong vòng 1 năm qua, cổ phiếu VCI đã mất hơn 55% giá trị.

Chỉ báo xấu trên “chứng trường”, bà Thanh Phượng từ bỏ mốc “ngàn tỷ”
Bà Nguyễn Thanh Phượng - Chủ tịch HĐQT Chứng khoán Bản Việt

Giá cổ phiếu VCI suy giảm sau khi HĐQT công ty này công bố kết quả phiên họp bàn về kế hoạch kinh doanh năm 2019 theo phương án “đi lùi”.

Theo đó, doanh nghiệp của bà Nguyễn Thanh Phượng lên kế hoạch, trong năm 2019, doanh thu dự kiến đạt 1.653 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 850 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế 680 tỷ đồng. So với thực hiện trong năm trước, kế hoạch lợi nhuận sau thuế của VCI giảm tới 17,3%.

Trước đó, trong năm 2018, VCI ghi nhận doanh thu hoạt động 1.821 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 1.011 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế 822,2 tỷ đồng.

Sự thận trọng của VCI là dễ hiểu trong bối cảnh thị trường chứng khoán năm 2019 vừa trải qua giai đoạn khởi đầu đầy thách thức với thanh khoản và thu hút vốn nước ngoại sụt mạnh trong quý I.

Trong quý I/2019, thị phần môi giới cổ phiếu, chứng chỉ quỹ của VCI trên HSX đạt 10,05%, xếp thứ 3 toàn thị trường sau SSI (14,54%) và HSC (10,82%). Trong khi đó, trên HNX, công ty của bà Nguyễn Thanh Phượng gây bất ngờ vì bị “bật” khỏi top 10 môi giới và chỉ xếp thứ 7 về thị phần môi giới trên UPCoM.

Trở lại với thị trường chứng khoán, phiên này, khối lượng giao dịch đạt 129,47 triệu cổ phiếu tương ứng 2.614,35 tỷ đồng trên HSX và 21,17 triệu cổ phiếu tương ứng 255,66 tỷ đồng trên HNX. Thanh khoản nhìn chung đã có những nỗ lực nhất định vào phiên chiều nhưng vẫn khá thấp.

Phiên này, cặp cổ phiếu VIC và VHM gây ấn tượng mạnh khi đóng góp lần lượt tới 3,1 điểm và trên 1 điểm cho VN-Index. Ngoài ra, chỉ số cũng được hỗ trợ từ MSN, VJC, VNM, SAB… và ngược lại bị ảnh hưởng tiêu cực bởi tình trạng giảm giá tại VCB, VPB, VRE, BVH, GAS.

Theo nhận định của BVSC, trong phiên cuối tuần, thị trường dự báo sẽ có biến động giằng co trong vùng 981-991 điểm. VN-Index cần vượt lên vùng kháng cự này nếu muốn có sự chuyển biến tốt hơn về mặt xu hướng ngắn hạn.

BVSC vẫn đặt kỳ vọng vào khả năng thị trường sẽ quay lại thử thách vùng kháng cự tâm lý 1000 điểm trong những phiên tiếp theo. Hiện tượng phân hóa mạnh giữa các dòng cổ phiếu sẽ tiếp tục diễn ra và có thể sẽ tạo ra khó khăn đối với hoạt động tìm kiếm lợi nhuận của nhà đầu tư trên thị trường.

Dòng tiền vẫn sẽ hướng sự quan tâm đến các nhóm ngành như công nghệ thông tin, dệt may, thủy sản, nhựa và một số cổ phiếu trong nhóm ngành bất động sản… để tìm kiếm lợi nhuận. Nhóm cổ phiếu dầu khí sẽ phải đối mặt với áp lực chốt lời. Trong khi, các cổ phiếu bluechips và nhóm ngân hàng dự kiến sẽ tiếp tục dao động theo hướng giằng co, đi ngang là chủ đạo.

Trong giai đoạn này, các nhà đầu tư nên tiếp tục duy trì tỷ trọng danh mục ở mức cân bằng 35-45% cổ phiếu. Hạn chế việc mua cổ phiếu ở các mức giá cao trong phiên và chỉ mở các vị thế lướt sóng tại các vùng hỗ trợ cụ thể của từng cổ phiếu trong các phiên thị trường điều chỉnh. Đối với nhà đầu tư đang nắm giữ tỷ trọng cổ phiếu cao cần tận dụng các nhịp tăng điểm của thị trường để bán giảm tỷ trọng.

Theo Dân trí

Thiếu tiền chi trả, đại gia Đặng Thành Tâm xin “khất” cổ tức
Đại cổ đông “chặn đứng” tham vọng, “trùm xây dựng” Coteccons liền mất hơn 1.400 tỷ đồng
Trải nghiệm tính năng vượt trội của sản phẩm quản lý đầu tư BSC i-Invest
PSI: Năng lượng mới - Giải pháp mới
Sau cú “sốc” DongABank, bất ngờ với bản lĩnh vợ ông Trần Phương Bình
“Bóng ma” nợ nần, thua lỗ đeo bám Hoàng Anh Gia Lai

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 87,000 89,000
AVPL/SJC HCM 87,000 89,000
AVPL/SJC ĐN 87,000 89,000
Nguyên liệu 9999 - HN 87,800 88,200
Nguyên liệu 999 - HN 87,700 88,100
AVPL/SJC Cần Thơ 87,000 89,000
Cập nhật: 26/10/2024 09:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 87.600 88.900
TPHCM - SJC 87.000 89.000
Hà Nội - PNJ 87.600 88.900
Hà Nội - SJC 87.000 89.000
Đà Nẵng - PNJ 87.600 88.900
Đà Nẵng - SJC 87.000 89.000
Miền Tây - PNJ 87.600 88.900
Miền Tây - SJC 87.000 89.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 87.600 88.900
Giá vàng nữ trang - SJC 87.000 89.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 87.600
Giá vàng nữ trang - SJC 87.000 89.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 87.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 87.500 88.300
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 87.410 88.210
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 86.520 87.520
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 80.480 80.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 64.980 66.380
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 58.790 60.190
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 56.150 57.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 52.610 54.010
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 50.410 51.810
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 35.480 36.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 31.860 33.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 27.890 29.290
Cập nhật: 26/10/2024 09:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,690 8,885
Trang sức 99.9 8,680 8,875
NL 99.99 8,755
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,710
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,780 8,895
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,780 8,895
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,780 8,895
Miếng SJC Thái Bình 8,700 8,900
Miếng SJC Nghệ An 8,700 8,900
Miếng SJC Hà Nội 8,700 8,900
Cập nhật: 26/10/2024 09:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,377.03 16,542.46 17,073.19
CAD 17,855.01 18,035.36 18,613.99
CHF 28,538.34 28,826.60 29,751.44
CNY 3,471.82 3,506.89 3,619.40
DKK - 3,614.03 3,752.43
EUR 26,766.87 27,037.25 28,234.58
GBP 32,076.74 32,400.75 33,440.25
HKD 3,182.44 3,214.58 3,317.71
INR - 301.01 313.05
JPY 161.12 162.75 170.49
KRW 15.80 17.55 19.05
KWD - 82,623.78 85,927.11
MYR - 5,788.52 5,914.78
NOK - 2,272.06 2,368.53
RUB - 249.29 275.97
SAR - 6,736.09 7,005.40
SEK - 2,350.89 2,450.71
SGD 18,744.31 18,933.64 19,541.09
THB 663.65 737.39 765.63
USD 25,167.00 25,197.00 25,467.00
Cập nhật: 26/10/2024 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,215.00 25,227.00 25,467.00
EUR 26,937.00 27,045.00 28,132.00
GBP 32,302.00 32,432.00 33,379.00
HKD 3,203.00 3,216.00 3,317.00
CHF 28,757.00 28,872.00 29,719.00
JPY 163.10 163.76 170.80
AUD 16,526.00 16,592.00 17,078.00
SGD 18,904.00 18,980.00 19,499.00
THB 734.00 737.00 768.00
CAD 17,996.00 18,068.00 18,575.00
NZD 14,991.00 15,476.00
KRW 17.64 19.38
Cập nhật: 26/10/2024 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25273 25273 25467
AUD 16461 16561 17131
CAD 17963 18063 18614
CHF 28867 28897 29691
CNY 0 3524.8 0
CZK 0 1040 0
DKK 0 3670 0
EUR 27000 27100 27972
GBP 32420 32470 33572
HKD 0 3280 0
JPY 163.85 164.35 170.86
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.054 0
MYR 0 6027 0
NOK 0 2312 0
NZD 0 15026 0
PHP 0 415 0
SEK 0 2398 0
SGD 18820 18950 19682
THB 0 695.5 0
TWD 0 790 0
XAU 8700000 8700000 8900000
XBJ 8200000 8200000 8700000
Cập nhật: 26/10/2024 09:00