Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Bàn về gói kích thích kinh tế, Thống đốc nhắc bài học "xương máu" lạm phát

11:24 | 12/11/2021

409 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Thống đốc Ngân hàng nhắc lại bài học của thời gian trước, khi tăng tín dụng, thực hiện gói hỗ trợ lãi suất 2008, không tính toán cẩn thận thì có rủi ro lạm phát quay lại năm 2011, có lúc đến 18%.

Tại phiên chất vấn Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư sáng nay (12/11), các vấn đề xung quanh gói kích thích, phục hồi kinh tế tiếp tục được đại biểu Quốc hội quan tâm.

Những lo ngại khi tiền tung ra nhưng khó hấp thụ, lạm phát, bội chi, những khó khăn trong tiếp cận vốn của doanh nghiệp… được đặt ra.

"Chia lửa" với Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng đã có phần giải trình thêm về khả năng giảm lãi suất cho vay, giải pháp của ngân hàng hỗ trợ người dân, phục hồi phát triển kinh tế.

Bàn về gói kích thích kinh tế, Thống đốc nhắc bài học xương máu lạm phát - 1
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng (Ảnh: Quốc Chính).

Cụ thể, Thống đốc Hồng cho biết, đại dịch vừa qua đã tác động nghiêm trọng với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và người dân. Để tháo gỡ khó khăn, NHNN cũng đã vào cuộc trách nhiệm với 3 lần giảm lãi suất điều hành, tổng mức giảm 1,5-2% từ đầu năm 2020, khi đại dịch mới xuất hiện. "Đây là mức giảm sâu so với các nước trong khu vực", bà Hồng nói.

NHNN cũng kêu gọi các TCTD giảm lãi suất cho vay cũ, cho vay mới, mặt bằng giảm khoảng 1,66% so với trước khi có dịch. Từ khi có dịch đến nay thì tổng mức giảm lãi suất khoảng 30.000 tỷ đồng, cũng tiếp tục thực hiện giảm từ nay đến cuối năm. Ngoài lãi suất thì TCTD cũng giảm phí, mức giảm tương đương 2.000 tỷ đồng.

Theo bà Hồng, nhiệm vụ của NHNN là điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Để xác định dư địa còn tiếp tục giảm được lãi suất hay không, bà Hồng cho biết theo đánh giá thì năm 2021 khả năng lạm phát vẫn đạt mục tiêu dưới 4%.

Nhưng đến năm 2022 thì rủi ro lạm phát đang có áp lực lớn, bà Hồng nói. Theo bà Hồng, các nền kinh tế lớn dần phục hồi nên giá hàng hóa trên thế giới đang có xu hướng gia tăng. Các nước phát triển cũng đang đối diện lạm phát tăng cao lịch sử, Mỹ tăng 5,3% tháng 9. Độ mở kinh tế Việt Nam thì lớn nên có áp lực rủi ro của lạm phát nhập khẩu đúng như một đại biểu Quốc hội nêu, bà Hồng nhấn mạnh.

Theo Thống đốc, các ngân hàng trung ương trên thế giới cũng dừng nới lỏng chính sách tiền tệ, có 65 lượt tăng lãi suất, nên áp lực với điều hành chính sách tiền tệ thời gian tới là lớn.

Trong nước, nợ xấu ngân hàng gia tăng. Thời gian qua, ngân hàng giảm lãi suất bằng chính nguồn lực của mình, không từ ngân sách nên nếu nợ xấu tăng thì ngân hàng phải dùng nguồn lực để xử lý.

"Nếu tình hình tài chính của ngân hàng suy giảm thì ảnh hưởng đến an toàn hệ thống, cái này có bài học của thời gian trước, khi mà tăng tín dụng cao, thực hiện gói hỗ trợ lãi suất 2008, không tính toán cẩn thận thì có rủi ro lạm phát quay lại năm 2011, có lúc đến 18%", bà Hồng nói.

Bà cho biết NHNN vẫn chỉ đạo cả hệ thống tiết giảm chi phí để tiếp tục giảm lãi suất nhưng vẫn đảm bảo an toàn, phối hợp với các bộ ngành để tính toán gói hỗ trợ lãi suất trên cơ sở vẫn đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.

Theo Dân trí

Công tác dạy và học trực tuyến bảo đảm hiệu quả, công bằngCông tác dạy và học trực tuyến bảo đảm hiệu quả, công bằng
Chủ tịch Quốc hội: Đại dịch Covid-19 làm chậm tiến trình đổi mới giáo dụcChủ tịch Quốc hội: Đại dịch Covid-19 làm chậm tiến trình đổi mới giáo dục
Giải quyết thực trạng thiếu hụt lao động ra sao?Giải quyết thực trạng thiếu hụt lao động ra sao?
Quốc hội sắp chất vấn về phục hồi kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệpQuốc hội sắp chất vấn về phục hồi kinh tế, hỗ trợ doanh nghiệp
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung: Bộ trưởng Đào Ngọc Dung: "Người dân đang đói, cán bộ đừng nghĩ về nhà!"
Bộ trưởng Tài chính: Nhiều nơi còn nghèo, lãnh đạo tỉnh vẫn đi xe 20 nămBộ trưởng Tài chính: Nhiều nơi còn nghèo, lãnh đạo tỉnh vẫn đi xe 20 năm
Đại biểu Quốc hội: Bộ Giáo dục chậm trễ, lúng túng ứng phó với đại dịchĐại biểu Quốc hội: Bộ Giáo dục chậm trễ, lúng túng ứng phó với đại dịch
Bác sĩ Nguyễn Lân Hiếu nêu phương án để Giám đốc bệnh viện tránh lao lýBác sĩ Nguyễn Lân Hiếu nêu phương án để Giám đốc bệnh viện tránh lao lý

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 86,000 ▲2000K 88,000 ▲2000K
AVPL/SJC HCM 86,000 ▲2000K 88,000 ▲2000K
AVPL/SJC ĐN 86,000 ▲2000K 88,000 ▲2000K
Nguyên liệu 9999 - HN 85,700 ▲1100K 86,100 ▲1100K
Nguyên liệu 999 - HN 85,600 ▲1100K 86,000 ▲1100K
AVPL/SJC Cần Thơ 86,000 ▲2000K 88,000 ▲2000K
Cập nhật: 21/10/2024 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 85.600 ▲900K 86.600 ▲900K
TPHCM - SJC 86.000 ▲2000K 88.000 ▲2000K
Hà Nội - PNJ 85.600 ▲900K 86.600 ▲900K
Hà Nội - SJC 86.000 ▲2000K 88.000 ▲2000K
Đà Nẵng - PNJ 85.600 ▲900K 86.600 ▲900K
Đà Nẵng - SJC 86.000 ▲2000K 88.000 ▲2000K
Miền Tây - PNJ 85.600 ▲900K 86.600 ▲900K
Miền Tây - SJC 86.000 ▲2000K 88.000 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 85.600 ▲900K 86.600 ▲900K
Giá vàng nữ trang - SJC 86.000 ▲2000K 88.000 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 85.600 ▲900K
Giá vàng nữ trang - SJC 86.000 ▲2000K 88.000 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 85.600 ▲900K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 85.400 ▲800K 86.200 ▲800K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 85.310 ▲790K 86.110 ▲790K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 84.440 ▲790K 85.440 ▲790K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 78.560 ▲730K 79.060 ▲730K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 63.400 ▲600K 64.800 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 57.370 ▲550K 58.770 ▲550K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 54.780 ▲520K 56.180 ▲520K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 51.330 ▲490K 52.730 ▲490K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 49.180 ▲470K 50.580 ▲470K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 34.610 ▲330K 36.010 ▲330K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 31.080 ▲300K 32.480 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 27.200 ▲270K 28.600 ▲270K
Cập nhật: 21/10/2024 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,490 ▲100K 8,670 ▲100K
Trang sức 99.9 8,480 ▲100K 8,660 ▲100K
NL 99.99 8,550 ▲100K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,510 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,580 ▲100K 8,680 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,580 ▲100K 8,680 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,580 ▲100K 8,680 ▲100K
Miếng SJC Thái Bình 8,600 ▲200K 8,800 ▲200K
Miếng SJC Nghệ An 8,600 ▲200K 8,800 ▲200K
Miếng SJC Hà Nội 8,600 ▲200K 8,800 ▲200K
Cập nhật: 21/10/2024 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,449.59 16,615.75 17,148.95
CAD 17,806.49 17,986.36 18,563.55
CHF 28,439.35 28,726.62 29,648.47
CNY 3,459.47 3,494.41 3,606.55
DKK - 3,606.03 3,744.15
EUR 26,694.29 26,963.93 28,158.23
GBP 32,055.29 32,379.08 33,418.15
HKD 3,166.60 3,198.58 3,301.23
INR - 299.51 311.48
JPY 162.88 164.53 172.35
KRW 15.86 17.62 19.12
KWD - 82,232.66 85,520.99
MYR - 5,808.00 5,934.73
NOK - 2,257.12 2,352.97
RUB - 250.04 276.80
SAR - 6,705.27 6,973.40
SEK - 2,345.18 2,444.77
SGD 18,743.68 18,933.01 19,540.58
THB 669.03 743.37 771.84
USD 25,040.00 25,070.00 25,430.00
Cập nhật: 21/10/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,010.00 25,020.00 25,360.00
EUR 26,827.00 26,935.00 28,062.00
GBP 32,247.00 32,377.00 33,375.00
HKD 3,176.00 3,189.00 3,295.00
CHF 28,576.00 28,691.00 29,583.00
JPY 164.85 165.51 173.03
AUD 16,595.00 16,662.00 17,175.00
SGD 18,883.00 18,959.00 19,512.00
THB 739.00 742.00 775.00
CAD 17,908.00 17,980.00 18,517.00
NZD 15,058.00 15,567.00
KRW 17.63 19.41
Cập nhật: 21/10/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25080 25080 25430
AUD 16550 16650 17212
CAD 17933 18033 18585
CHF 28791 28821 29615
CNY 0 3516.6 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3638 0
EUR 26965 27065 27938
GBP 32405 32455 33558
HKD 0 3220 0
JPY 165.77 166.27 172.78
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.059 0
MYR 0 5974 0
NOK 0 2304 0
NZD 0 15108 0
PHP 0 408 0
SEK 0 2395 0
SGD 18861 18991 19712
THB 0 702.3 0
TWD 0 772 0
XAU 8600000 8600000 8800000
XBJ 7900000 7900000 8500000
Cập nhật: 21/10/2024 16:00