Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Hàng không “kêu cứu”, đứng bên bờ vực phá sản

09:00 | 25/08/2021

472 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Hiện tại, doanh thu của các hãng hàng không sụt giảm ở mức báo động 80-90% so với năm 2020, các nguồn lực về tài sản, tài chính tích lũy đã cạn kiệt, mức nợ gốc và lãi tăng cao trong khi nguồn vốn vay rất khó khăn... Trước nguy cơ phá sản, vừa qua Hiệp hội Doanh nghiệp hàng không Việt Nam (VABA) đã khẩn thiết "kêu cứu” đến Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN)

Sức tàn, lực kiệt

Kể từ khi đại dịch bùng phát từ năm 2020 đến nay, “đôi cánh vàng” của du lịch, lĩnh vực vận tải chiến lược có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế đất nước đã rơi vào tình trạng “nằm không”, “thoi thóp” trước tác động quá nặng nề bởi đại dịch Covid-19. Trong văn bản gửi NHNN mới đây, VABA đã chỉ ra tình trạng “sức khỏe” của ngành đã ở mức báo động. Theo ông Bùi Doãn Nề, Tổng thư ký VABA, đợt bùng phát dịch bệnh lần thứ 4 ở Việt Nam tới nay đã thêm một cú giáng mạnh vào nguồn lực kinh tế vốn đã cạn kiệt, khiến các hãng hàng không lâm vào tình trạng nguy hiểm, báo cáo của các hãng hàng không đều cho thấy nhu cầu cần được hỗ trợ tháo gỡ khó khăn về vốn là rất cấp bách.

Đội tàu bay của Vietnam airline ể từ sau ngày 1/5, sản lượng chuyến bay, hành khách qua cảng sụt giảm nghiêm trọng. Sản lượng hành khách nội địa giai đoạn tháng 4, đặc biệt cao điểm dịp nghỉ lễ 30/4 tại Nội Bài đạt trung bình mỗi ngày trên 60.000 lượt khách với 500 lượt chuyến bay, ngày cao điểm nhất đạt 78.000 lượt khách nội địa và 530 lượt chuyến bay đi/đến.
Đội tàu bay của Vietnam Airline nằm "đắp chiếu" trên sân bay Nội Bài

Cần biết thêm, trước đó vào năm 2020, doanh thu các hãng hàng không Việt giảm trên 60% (khoảng 100.000 tỷ đồng). Số tiền nộp ngân sách cũng bị giảm tương ứng, trong khi năm 2019, các hãng hàng không nộp thuế, phí trực và gián tiếp trên 20.000 tỷ đồng. Lỗ từ hoạt động hàng không của 3 hãng Vietnam Airlines, Vietjet Air, Bamboo lên tới 16.000 tỷ đồng. Năm 2021, đợt bùng phát dịch lần 3 và 4 vào dịp cao điểm Tết và hè đã khiến doanh thu hàng không giảm sâu 80-90% (riêng tháng 5 và 6 doanh thu giảm 90% so với cùng kỳ năm 2020), nợ gốc và lãi tăng cao trong khi các nguồn lực về tài sản, tài chính tích lũy của các hãng bị cạn kiệt. Trong khi đó, để duy trì hoạt động tối thiểu trong mùa dịch, ông Bùi Doãn Nề cho hay các hãng phải chi trên 100 tỷ đồng/ngày.

Theo nhiều chuyên gia, việc tiếp nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng thương mại và giải pháp tài chính khác vào lúc này đều khó khả thi nếu không có một cơ chế đặc biệt. Tới thời điểm này, mới chỉ có Vietnam Airlines là hãng duy nhất được vay 4.000 tỷ đồng với lãi suất 0% từ nguồn tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước. Trong khi các hãng bay tư nhân đang vật lộn với tình trạng kiệt quệ tài chính và chưa nhận được hỗ trợ vay vốn.

Theo báo cáo của VABA, lợi nhuận sau thuế quý I của Vietnam Airlines âm gần 5.000 tỷ đồng, là khoản lỗ theo quý lớn nhất từ trước đến nay. Bộ Kế hoạch Đầu tư cũng nhận định doanh nghiệp này đang khó khăn, bên bờ vực phá sản. Tính đến 30/6/2021, các khoản công nợ quá hạn đối tác, nhà cung cấp của Vietnam Airlines lên đến con số 13.340 tỷ đồng. Vietjet Air, Bamboo Airways đã cố gắng tối ưu hóa hoạt động khai thác và duy trì sản xuất kinh doanh thông qua việc chuyển nhượng các tài sản trong năm 2020 song dự báo hoạt động của 2 hãng bay tư nhân này tiếp tục khó khăn trong năm nay, các hãng hết nguồn lực tài chính để hỗ trợ dịch vụ vận tải hàng không. Ước tính Vietjet Air thiếu hụt khoảng 10.000 tỷ đồng để hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh.

5.000 tỷ đồng cùng nhiều giải pháp cứu ngành hàng không

Trước tình trạng này, ông Bùi Doãn Nề cho biết đã có văn bản kiến nghị Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh Thông tư 03/2021 ngày 2/4/2021 về việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Đồng thời, đề nghị được vay tín dụng với lãi suất ưu đãi.

Tháng 7 vừa qua với các hãng hàng không Việt Nam khó khăn không kém tháng 4/2020, giai đoạn ảm đạm nhất của ngành trong năm 2020 khi dịch Covid-19 lần đầu bùng phát mạnh tại Việt Nam.
Hàng trăm máy bay dầm mưa dãi nắng do phải đậu ngoài trời lâu ngày, chưa biết khi nào hoạt động trở lại, toàn bộ máy bay ở Cảng hàng không quốc tế Nội Bài được bao bọc kín động cơ, bánh và nhiều vị trí khác. Đây là giai đoạn ảm đạm nhất của ngành trong năm 2021 kể từ khi dịch Covid-19 lần đầu bùng phát mạnh tại Việt Nam.

Cụ thể, VABA kiến nghị mở rộng đối tượng, các khoản nợ được cơ cấu lại, áp dụng việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi giữ nguyên nhóm nợ phải trả và phát sinh mới trong thời gian dịch bệnh bùng phát cho cả các khoản giải ngân cả trước và sau ngày 10/6/2020.

Lý giải vấn đề trên, VABA cho biết, trên thực tế, khó khăn của doanh nghiệp hiện tại là thiếu dòng tiền ngắn hạn để chi trả các khoản duy trì hoạt động sản xuất. Việc quy định chỉ tái cơ cấu nợ cho các khoản vay trước 10/6/2020 khiến cho các khoản vay ngắn hạn gần như không nằm trong diện tái cơ cấu theo Thông tư 03/2021/TT-NHNN (TT03); điều này gây sức ép lớn lên dòng tiền ngắn hạn của doanh nghiệp, làm doanh nghiệp không thể trả nợ đúng hạn, từ đó phát sinh nợ xấu khiến không thể vay mới để duy trì hoạt động.

Thứ hai, đề nghị kéo dài thời gian thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho các dư nợ phát sinh nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi; giữ nguyên nhóm nợ; việc thực hiện miễn, giảm lãi, phí trong khoảng thời gian từ 23/1/2020 cho đến ngày liền kề sau 3-6 tháng kể từ khi Chính phủ công bố hết dịch Covid-19 (hoặc công bố trạng thái bình thường mới) theo quy định của Thông 01/2020/TT-NHNN (TT01) thay vì giới hạn thời hạn tại 31/12/2021.

Lý do được VABA đưa ra là sau khi hết dịch bệnh thì doanh nghiệp vẫn cần thời gian từ 3 tháng đến 6 tháng để ổn định trở lại, trong khi Covid-19 đã ảnh hưởng xuyên suốt năm 2020 cho đến nay và dự kiến còn tiếp tục diễn biến phức tạp, kéo dài ít nhất là hết năm 2021.

Thứ ba, đối với các khoản vay trung và dài hạn, ngay cả khi dịch bệnh được kiểm soát, doanh nghiệp cũng cần có thời gian ổn định, phục hồi sản xuất, cải thiện dần dòng tiền; tới khi có doanh thu trở lại thì mới có tiền để trả nợ ngân hàng. Doanh nghiệp rất khó có thể đảm bảo duy trì dòng tiền để vừa đảm bảo hoạt động sản xuất vừa trả nợ trong vòng 12 tháng kể từ ngày ngân hàng thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ (kể cả thời gian gia hạn nợ) như quy định tại TT03. Do đó, cần kéo dài thời gian cơ cấu lên 18-24 tháng hoặc thực hiện theo TT01 là "12 tháng kể từ ngày cuối cùng của thời hạn cho vay”.

Cũng theo Tổng thư ký VABA, TT01 và TT03 chỉ quy định cơ cấu lại nợ đối với các khoản vay, cho thuê tài chính, trong khi đại dịch Covid-19 ảnh hưởng đến các doanh nghiệp ở nhiều khía cạnh. “Do đó kiến nghị bổ sung áp dụng việc cơ cấu lại thời gian trả nợ, miễn giãm lãi đối với dư nợ phát sinh từ các nghiệp vụ cấp tín dụng khác như bảo lãnh, bao thanh toán…”, ông Nề nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, để giảm áp lực về nguồn vốn, chi phí trích lập dự phòng cũng như tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực hiện TT01 và TT03 trên tinh thần "lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ", Hiệp hội đề xuất Thống đốc NHNN xem xét và ban hành cơ chế về tái cấp vốn tương tự như Thông tư 04/2021/TT-NHNN để các ngân hàng thương mại cho các hãng hàng không tư nhân đã và đang bị ảnh hưởng trực tiếp bởi Covid-19 vay tùy theo quy mô kinh doanh của từng hãng, với số tiền từ 4.000-5.000 tỷ đồng, lãi suất ưu đãi, thời hạn tái cấp vốn là 12 tháng và có thể được gia hạn khi ảnh hưởng của dịch bệnh tiếp tục kéo dài.

Minh Châu

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 84,000 86,000
AVPL/SJC HCM 84,000 86,000
AVPL/SJC ĐN 84,000 86,000
Nguyên liệu 9999 - HN 84,600 ▲150K 85,000 ▲150K
Nguyên liệu 999 - HN 84,500 ▲150K 84,900 ▲150K
AVPL/SJC Cần Thơ 84,000 86,000
Cập nhật: 19/10/2024 19:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 84.700 ▲200K 85.700 ▲160K
TPHCM - SJC 84.000 86.000
Hà Nội - PNJ 84.700 ▲200K 85.700 ▲160K
Hà Nội - SJC 84.000 86.000
Đà Nẵng - PNJ 84.700 ▲200K 85.700 ▲160K
Đà Nẵng - SJC 84.000 86.000
Miền Tây - PNJ 84.700 ▲200K 85.700 ▲160K
Miền Tây - SJC 84.000 86.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 84.700 ▲200K 85.700 ▲160K
Giá vàng nữ trang - SJC 84.000 86.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 84.700 ▲200K
Giá vàng nữ trang - SJC 84.000 86.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 84.700 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 84.600 ▲300K 85.400 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 84.520 ▲300K 85.320 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 83.650 ▲300K 84.650 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 77.830 ▲280K 78.330 ▲280K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 62.800 ▲220K 64.200 ▲220K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 56.820 ▲200K 58.220 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 54.260 ▲190K 55.660 ▲190K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 50.840 ▲180K 52.240 ▲180K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 48.710 ▲180K 50.110 ▲180K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 34.280 ▲130K 35.680 ▲130K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 30.780 ▲120K 32.180 ▲120K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 26.930 ▲100K 28.330 ▲100K
Cập nhật: 19/10/2024 19:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,390 ▲20K 8,570 ▲20K
Trang sức 99.9 8,380 ▲20K 8,560 ▲20K
NL 99.99 8,450 ▲20K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,410 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,480 ▲20K 8,580 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,480 ▲20K 8,580 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,480 ▲20K 8,580 ▲20K
Miếng SJC Thái Bình 8,400 8,600
Miếng SJC Nghệ An 8,400 8,600
Miếng SJC Hà Nội 8,400 8,600
Cập nhật: 19/10/2024 19:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,452.20 16,618.38 17,151.77
CAD 17,776.42 17,955.98 18,532.30
CHF 28,315.00 28,601.01 29,519.00
CNY 3,450.91 3,485.77 3,597.65
DKK - 3,590.50 3,728.05
EUR 26,579.46 26,847.94 28,037.26
GBP 31,955.66 32,278.44 33,314.46
HKD 3,155.91 3,187.79 3,290.10
INR - 298.55 310.49
JPY 161.96 163.60 171.38
KRW 15.86 17.62 19.12
KWD - 81,885.84 85,160.78
MYR - 5,785.93 5,912.21
NOK - 2,265.13 2,361.33
RUB - 248.89 275.52
SAR - 6,680.64 6,947.83
SEK - 2,343.95 2,443.50
SGD 18,685.35 18,874.09 19,479.88
THB 670.26 744.74 773.27
USD 24,950.00 24,980.00 25,340.00
Cập nhật: 19/10/2024 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,010.00 25,030.00 25,370.00
EUR 26,780.00 26,888.00 28,015.00
GBP 32,280.00 32,410.00 33,408.00
HKD 3,178.00 3,191.00 3,297.00
CHF 28,525.00 28,640.00 29,529.00
JPY 163.91 164.57 172.01
AUD 16,609.00 16,676.00 17,189.00
SGD 18,845.00 18,921.00 19,473.00
THB 740.00 743.00 776.00
CAD 17,933.00 18,005.00 18,543.00
NZD 15,047.00 15,556.00
KRW 17.60 19.38
Cập nhật: 19/10/2024 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24985 24985 25345
AUD 16538 16638 17208
CAD 17889 17989 18549
CHF 28642 28672 29476
CNY 0 3506 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3638 0
EUR 26821 26921 27794
GBP 32303 32353 33470
HKD 0 3220 0
JPY 164.89 165.39 171.9
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.059 0
MYR 0 5974 0
NOK 0 2304 0
NZD 0 15075 0
PHP 0 408 0
SEK 0 2395 0
SGD 18786 18916 19646
THB 0 703.9 0
TWD 0 772 0
XAU 8400000 8400000 8600000
XBJ 7700000 7700000 8200000
Cập nhật: 19/10/2024 19:00