Bài học “Kỷ luật và đồng tâm”
Năng lượng Mới số 373
Từ bài học năm xưa
Thấm thoắt đã 78 năm, những giá trị về cuộc tổng bãi công đêm ngày 12/11/1936 tại Cẩm Phả đã trở thành một biểu tượng cho ý chí quật cường của những người công nhân mỏ. Cũng từ đó, khẩu hiệu “Kỷ luật và đồng tâm” từ năm 1936 đã trở thành tài sản vô giá, theo bước chân thợ mỏ đến ngày hôm nay và mãi mãi về sau. Từ khẩu hiệu ấy, ngày hôm nay trong chiến lược phát triển của Tập đoàn đã được nâng lên thành “Trí tuệ, trung thành, kỷ luật, đồng tâm” là khẩu hiệu, là phương châm hành động. Tập đoàn đã và đang thực hiện trí thức hóa đội ngũ công nhân, tăng cường sự phấn đấu để trung thành với nghề, với ngành, có tính kỷ luật và sự đoàn kết . Cho đến hôm nay, truyền thống “Kỷ luật và đồng tâm” được lớp lớp các thế hệ thợ mỏ kế tiếp nhau phát huy kết hợp với sức mạnh của thời đại đã xây dựng và phát triển ngành than ngày càng lớn mạnh, đáp ứng nhu cầu than của nền kinh tế, góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội, làm nên chặng đường vẻ vang của thợ mỏ - ngành than.
Tượng đài thợ mỏ Việt Nam
Có thể thấy rằng, phát huy truyền thống vốn có của công nhân vùng mỏ, phát huy nội lực mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế, kể từ khi thành lập Tổng Công ty Than Việt Nam năm 1994, đến nay sản lượng than khai thác luôn tăng trưởng cao. Năm 1994, sản lượng khai thác chỉ đạt gần 6 triệu tấn thì năm 2012, trong điều kiện nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, ngành than vẫn đạt sản lượng 44,5 triệu tấn và năm 2013, ngành than vẫn phấn đấu đạt sản lượng trên 40 triệu tấn và tiêu thụ đạt mức 39 triệu tấn. Bên cạnh đó, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã phát triển thêm các sản phẩm mới như: Sản xuất điện, sản xuất và cung ứng vật liệu nổ công nghiệp, sản xuất xi măng và vật liệu xây dựng, kim loại màu, chế tạo thiết bị mỏ…
So với cách đây 20 năm, tổng doanh thu toàn Tập đoàn cũng tăng 44,7 lần. Nộp ngân sách Nhà nước tăng từ trên 100 tỉ/năm lên trên 16.000 tỉ đồng/năm. Vốn chủ sở hữu tăng từ 750 tỉ đồng năm 1995 lên 31.000 tỉ đồng năm 2012. TKV đã bảo toàn và phát triển được vốn Nhà nước, đảm bảo cung cấp đủ than cho nền kinh tế đất nước, bảo đảm thu nhập và việc làm cho gần 14 vạn cán bộ, công nhân, người lao động của TKV nói chung và 11 vạn công nhân mỏ và người lao động tại tỉnh Quảng Ninh nói riêng. Ngành than cũng không ngừng đưa ra những dự án mới, cải cách chiến lược kinh doanh sao cho phù hợp với tình hình kinh tế của cả nước, nâng cao chất lượng quản lý, đầu tư trang thiết bị, máy móc hiện đại để tăng hiệu quả sản xuất, bảo đảm an toàn lao động cho công nhân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, những người thợ lò cũng không ngừng hăng say, sáng tạo, có tinh thần trách nhiệm trong lao động. Bên cạnh đó là nguồn cán bộ, nhân lực của ngành than một phần đã chuyển sang tham gia xây dựng chính quyền của Quảng Ninh góp phần vào sự phát triển chung của Quảng Ninh như chúng ta đã thấy ngày hôm nay. Ngoài sự đóng góp về nhân lực và cơ sở vật chất cho Quảng Ninh, ngành than đã đóng góp một tỷ trọng lớn chủ yếu cho sự phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời, việc góp phần đảm bảo an sinh xã hội và an ninh trật tự của ngành than đã làm cho sự ổn định an ninh chính trị và xã hội trên địa bàn tỉnh.
Nhất định thắng lợi
Cùng với sự thay đổi từng ngày của vùng mỏ, đời sống của hơn 11 vạn thợ mỏ, công nhân, người lao động của ngành than tại Quảng Ninh đã và đang được cải thiện rõ rệt. Với sự phát triển không ngừng ấy, đời sống của công nhân mỏ đã được cải thiện nhiều. Ngày xưa, thợ lò vất vả do điều kiện cơ sở hạ tầng thấp kém. Ngày nay, việc đi lại của thợ lò được cải thiện rất nhiều. Sau khi làm việc xong, họ được tắm nóng lạnh, có người phục vụ giặt giũ quần áo, chuẩn bị cơm nước rất chu đáo bằng hình thức ăn tự chọn… Ngoài ra, các công ty có những mức thưởng cao vào dịp lễ tết, có những đợt nghỉ dưỡng hằng năm cho tất cả thợ lò. Nhờ sự quan tâm, chăm lo đó mà ngành than Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu đáng kể. Sản lượng than không ngừng tăng qua các năm. Năm 1997 đạt 11,3 triệu tấn đánh dấu lần đầu tiên ngành than Việt Nam vượt mốc 10 triệu tấn là mức sản lượng mà Đại hội Đảng lần thứ VIII đề ra cho năm 2000. Năm 2005 đạt 31,3 triệu tấn, vượt xa mục tiêu sản lượng mà Quy hoạch phát triển ngành than đề ra cho năm 2020. Năm 2007 đạt 42,2 triệu tấn, vượt mốc 40 triệu tấn. Và từ đó đến nay sản lượng than đều đạt trên 40 triệu tấn, đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và xuất khẩu thu ngoại tệ, góp phần giảm nhập siêu và tạo nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển mở rộng.
Hiện nay, ngành than - khoáng sản cũng đang gặp rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của sự suy giảm kinh tế trong và ngoài nước, giá cả các mặt hàng đầu vào phục vụ sản xuất tăng cao, điều kiện khai thác ngày càng xuống sâu, giá thành khai thác tấn than ngày càng cao... Để khắc phục tình hình, trước mắt, cán bộ và công nhân vẫn tiếp tục phát huy hơn nữa tinh thần “Kỷ luật và đồng tâm”, tiết kiệm chi phí tối đa, tái cơ cấu cho hợp lý hơn với tình hình hiện tại. Đồng thời, Tập đoàn cũng đang nhận được sự giúp đỡ của Đảng và Nhà nước để vượt qua giai đoạn thách thức, duy trì sự vững mạnh của ngành cũng như ổn định đời sống cho người lao động. Mặc dù còn cần nhiều nỗ lực để hướng tới chiến lược phát triển đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 là xây dựng Tập đoàn trở thành tập đoàn kinh tế vững mạnh.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Tập đoàn trong Chiến lược nêu trên là khai thác than, khai thác bô-xít, sản xuất alumin, nhôm, khai thác các loại khoáng sản, luyện kim, sản xuất điện, sản xuất vật liệu nổ công nghiệp, cơ khí v.v... với mức sản lượng cao hơn nhiều so với hiện nay để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao của nền kinh tế trong bối cảnh Tập đoàn, đất nước và thế giới có nhiều khó khăn, phức tạp và diễn biến khó lường đặt ra nhiệm vụ hết sức nặng nề cho TKV. Để làm được điều đó, tin rằng tập thể cán bộ, công nhân viên và người lao động ngành than sẽ tiếp tục phát huy truyền thống từ khẩu hiệu đấu tranh năm xưa, nhất định thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển bền vững của Tập đoàn, xứng đáng với tấm Huân chương Sao vàng và danh hiệu Anh hùng Lao động trong thời kỳ đổi mới mà Đảng và Nhà nước đã phong tặng.
Nguyễn Kiên