Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Trung Quốc sẽ trở thành nhà xuất khẩu ô tô lớn nhất thế giới

11:58 | 24/01/2023

110 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Trung Quốc đã vượt qua Đức trở thành nhà xuất khẩu ô tô lớn thứ hai trên thế giới. Hiện nay, Nhật Bản vẫn đang giữ vị trí số 1 thế giới về sản xuất và xuất khẩu ô tô nhưng nhiều chuyên gia cho rằng chỉ trong một thời gian ngắn nữa thôi Trung Quốc mới là Vương.

Trung Quốc đã vượt qua Đức trở thành nhà xuất khẩu ô tô lớn thứ hai trên thế giới. Trong khi đó, “ngôi vương” xuất khẩu ô tô vẫn thuộc về Nhật Bản. Hiệp hội Nhà sản xuất Xe hơi Trung Quốc (CAAM) mới đây xác nhận thông tin trên. Theo đó, trong năm 2022, Trung Quốc xuất khẩu 3,11 triệu chiếc ô tô, tăng 54,4% so với năm trước.

Ô tô Trung Quốc nhập khẩu có xu hướng
Ô tô Trung Quốc nhập khẩu có xu hướng chiếm lĩnh thị trường thế giới.

Hãng Bloomberg (Mỹ) dẫn dự đoán của các nhà phân tích cho rằng trong vài năm tới, Trung Quốc sẽ vượt qua Nhật Bản để trở thành nhà xuất khẩu ô tô hàng đầu thế giới, tính theo số lượng.

Trong 11 tháng năm 2022, các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản xuất khẩu tổng cộng 3,2 triệu chiếc xe, gần như không thay đổi so với cùng kỳ năm ngoái. Trong năm 2021, Nhật Bản xuất khẩu 3,82 triệu chiếc xe. Trong khi đó, Hiệp hội Công nghiệp Xe hơi Đức cho biết năm 2022, nước này xuất khẩu 2,61 triệu ô tô, tăng 10% so với năm 2021.

Theo CAAM, lượng xe ô tô xuất khẩu chiếm 11,5% tổng lượng xe chở khách và xe thương mại sản xuất tại Trung Quốc đại lục năm 2022.

Các nhà sản xuất xe ô tô nước ngoài như Volkswagen, General Motors, BMW và Mercedes-Benz từ lâu đã thống trị thị trường xe hơi Trung Quốc. Kể từ năm 2009 đến nay, thị trường xe ô tô Trung Quốc là lớn nhất thế giới.

Ông Cao Hua tại công ty Unity Asset Management nhận định: “Xe điện của Trung Quốc đã chiếm thị phần lớn tại thị trường một số quốc gia đang phát triển”.

Các thương hiệu xe ô tô nội địa Trung Quốc như BYD và Geely đã mở rộng hoạt động ở nước ngoài với trợ lực từ chuỗi cung ứng xe hơi mạnh mẽ. Theo dữ liệu của CAAM, trong năm 2022, xuất khẩu xe ô tô điện của Trung Quốc tăng 120% so với năm trước, lên 679.000 chiếc, đóng góp đáng kể cho ngành xuất khẩu xe ô tô đang nở rộ của nước này. Trong quý 2 năm 2022, BYD đã vượt qua Tesla trở thành nhà sản xuất xe ô tô điện dẫn đầu thế giới.

Chính phủ Trung Quốc cũng tạo điều kiện phát triển lĩnh vực xe năng lượng mới của nước này. Vào tháng 10/2022, Trung Quốc tuyên bố kéo dài thời gian miễn thuế mua xe năng lượng mới đến cuối năm 2023. Đây là lần thứ 3 chính sách này được gia hạn kể từ khi có hiệu lực vào năm 2014. Hãng thông tấn Xinhua (Trung Quốc) dẫn ước tính của các chuyên gia cho rằng chính sách này sẽ giúp người mua xe ô tô điện tiết kiệm khoảng 10.000 nhân dân tệ (1.048 USD).

Ông Meng Wei – người phát ngôn của Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia Trung Quốc - cho biết nước này coi xe năng lượng mới là tiêu điểm trong thay đổi ngành công nghiệp xe hơi. Trung Quốc đã thiết lập một khuôn khổ chính sách tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của loại xe này.

Trong bản hướng dẫn phát triển xe năng lượng mới được công bố vào năm 2020, có 5 nhiệm vụ chính được nêu nhằm để phát triển dòng xe này từ năm 2021 đến năm 2035, trong đó có cải thiện năng lực phát triển công nghệ, xây dựng hệ sinh thái ngành kiểu mới và tăng cường cơ sở hạ tầng. Hơn 600 chính sách hỗ trợ khác đã được chính quyền trung ương và địa phương triển khai, trong đó có đổi mới công nghệ, quảng bá, ứng dụng và an ninh.

P.V

Ô tô Trung Quốc ồ ạt vào Việt Nam, tăng tới 230%Ô tô Trung Quốc ồ ạt vào Việt Nam, tăng tới 230%
Ô tô Trung Quốc ồ ạt về Việt Nam, vượt cả xe IndonesiaÔ tô Trung Quốc ồ ạt về Việt Nam, vượt cả xe Indonesia
Ô tô Trung Quốc muốn Ô tô Trung Quốc muốn "làm mưa làm gió" ở Việt Nam không hề dễ dàng
Ô tô Trung Quốc Ô tô Trung Quốc "đổ bộ" vào ASEAN, thị trường Việt Nam có thể gay gắt nhất

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 81,000 ▲1000K 84,000 ▲500K
AVPL/SJC HCM 81,000 ▲1000K 84,000 ▲500K
AVPL/SJC ĐN 81,000 ▲1000K 84,000 ▲500K
Nguyên liệu 9999 - HN 81,700 ▲700K 82,200 ▲300K
Nguyên liệu 999 - HN 81,600 ▲700K 82,100 ▲300K
AVPL/SJC Cần Thơ 81,000 ▲1000K 84,000 ▲500K
Cập nhật: 18/11/2024 12:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 81.400 ▲500K 83.000 ▲400K
TPHCM - SJC 81.000 ▲1000K 84.000 ▲500K
Hà Nội - PNJ 81.400 ▲500K 83.000 ▲400K
Hà Nội - SJC 81.000 ▲1000K 84.000 ▲500K
Đà Nẵng - PNJ 81.400 ▲500K 83.000 ▲400K
Đà Nẵng - SJC 81.000 ▲1000K 84.000 ▲500K
Miền Tây - PNJ 81.400 ▲500K 83.000 ▲400K
Miền Tây - SJC 81.000 ▲1000K 84.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 81.400 ▲500K 83.000 ▲400K
Giá vàng nữ trang - SJC 81.000 ▲1000K 84.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 81.400 ▲500K
Giá vàng nữ trang - SJC 81.000 ▲1000K 84.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 81.400 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 81.300 ▲500K 82.100 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 81.220 ▲500K 82.020 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 80.380 ▲500K 81.380 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 74.800 ▲450K 75.300 ▲450K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 60.330 ▲380K 61.730 ▲380K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 54.580 ▲340K 55.980 ▲340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 52.120 ▲330K 53.520 ▲330K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 48.830 ▲300K 50.230 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 46.780 ▲290K 48.180 ▲290K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 32.900 ▲200K 34.300 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 29.540 ▲190K 30.940 ▲190K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 25.840 ▲160K 27.240 ▲160K
Cập nhật: 18/11/2024 12:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,080 ▲60K 8,340 ▲60K
Trang sức 99.9 8,070 ▲60K 8,330 ▲60K
NL 99.99 8,120 ▲75K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,070 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,170 ▲60K 8,350 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,170 ▲60K 8,350 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,170 ▲60K 8,350 ▲60K
Miếng SJC Thái Bình 8,100 ▲70K 8,400 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 8,100 ▲70K 8,400 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 8,100 ▲70K 8,400 ▲50K
Cập nhật: 18/11/2024 12:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,018.86 16,180.67 16,699.77
CAD 17,578.41 17,755.97 18,325.61
CHF 27,884.97 28,166.64 29,070.27
CNY 3,422.14 3,456.70 3,567.60
DKK - 3,524.30 3,659.27
EUR 26,092.81 26,356.37 27,523.53
GBP 31,263.38 31,579.17 32,592.28
HKD 3,178.81 3,210.92 3,313.93
INR - 299.85 311.84
JPY 158.81 160.41 168.04
KRW 15.77 17.52 19.01
KWD - 82,312.62 85,603.40
MYR - 5,625.71 5,748.41
NOK - 2,247.35 2,342.77
RUB - 241.63 267.49
SAR - 6,746.43 6,994.40
SEK - 2,269.46 2,365.81
SGD 18,462.38 18,648.87 19,247.15
THB 646.00 717.78 745.27
USD 25,150.00 25,180.00 25,502.00
Cập nhật: 18/11/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,200.00 25,202.00 25,502.00
EUR 26,225.00 26,330.00 27,408.00
GBP 31,448.00 31,574.00 32,511.00
HKD 3,194.00 3,207.00 3,308.00
CHF 28,041.00 28,154.00 28,988.00
JPY 160.54 161.18 168.04
AUD 16,113.00 16,178.00 16,659.00
SGD 18,587.00 18,662.00 19,168.00
THB 711.00 714.00 744.00
CAD 17,694.00 17,765.00 18,259.00
NZD 14,649.00 15,129.00
KRW 17.46 19.17
Cập nhật: 18/11/2024 12:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25190 25190 25502
AUD 16061 16161 16724
CAD 17671 17771 18323
CHF 28187 28217 29010
CNY 0 3472.8 0
CZK 0 1028 0
DKK 0 3648 0
EUR 26291 26391 27263
GBP 31549 31599 32701
HKD 0 3240 0
JPY 161.14 161.64 168.16
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.8 0
LAK 0 1.095 0
MYR 0 5952 0
NOK 0 2294 0
NZD 0 14660 0
PHP 0 407 0
SEK 0 2336 0
SGD 18520 18650 19372
THB 0 675.3 0
TWD 0 782 0
XAU 8100000 8100000 8400000
XBJ 7800000 7800000 8350000
Cập nhật: 18/11/2024 12:00