Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Tin tức kinh tế ngày 1/7: Giá xăng có thể tăng 300 đồng/lít vào ngày mai

19:09 | 01/07/2019

1,314 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Sau 3 lần giảm liên tiếp, giá xăng có thể sẽ tăng 300 đồng/lít vào ngày mai; WB nhận định đà tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chậm lại kể từ đầu năm; Hà Nội thiệt hại khoảng 1.000 tỷ đồng vì dịch tả lợn châu Phi... là những tin kinh tế đáng chú ý ngày hôm nay 1/7.    

Giá xăng có thể tăng 300 đồng/lít vào ngày mai

Sau 3 lần giảm liên tiếp, giá xăng đang quay đầu đi lên, có lúc xăng RON 95 ở mức hơn 70 USD một thùng.

Theo dữ liệu của Bộ Công Thương, giá xăng thành phẩm bình quân trên thị trường Singapore ở chu kỳ này với RON 92 là 66,5 USD một thùng, RON 95 là 68,3 USD một thùng, tăng 3,3 - 4% so với kỳ trước. Cùng với đó, giá dầu đang trong thời kỳ điều chỉnh nên chỉ nhích nhẹ.

tin tuc kinh te ngay 17 gia xang co the tang 300 donglit vao ngay mai
Giá xăng có thể tăng 300 đồng/lít

Lãnh đạo một doanh nghiệp đầu mối ở TP HCM cho biết, giá xăng bắt đầu đi lên sau 3 kỳ giảm liên tiếp. Do đó, kỳ điều chỉnh này xăng có thể tăng 300 - 400 đồng một lít. Ngược lại, nếu nhà điều hành chi sử dụng quỹ bình ổn giá, xăng có thể được giữ nguyên.

Ngân hàng Thế giới: Kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng chậm lại

Đà tăng trưởng của Việt Nam chậm lại kể từ đầu năm, nhưng triển vọng vẫn tích cực, là nhận định được đưa ra trong báo cáo bán niên của Ngân hàng Thế giới (WB) về kinh tế Việt Nam có tên “Điểm lại” công bố 1/7.

Theo báo cáo của WB, ngành dịch vụ đạt kết quả kinh doanh tốt - dấu hiệu cho thấy nhu cầu trong nước và đặc biệt là tiêu dùng tư nhân vẫn tăng bền vững. Tỷ lệ nợ/GDP giảm từ mức đỉnh 63,7% năm 2016 xuống còn 58,4% năm 2018. Tăng trưởng kinh tế gần đây giảm tốc do tác động từ yếu tố bất lợi bên ngoài.

Tăng trưởng GDP năm 2019 theo giá so sánh dự báo giảm còn 6,6% do sức cầu bên ngoài yếu đi và chính sách tài khoá tiền tệ tiếp tục bị thắt chặt. Lạm phát được dự báo duy trì dưới ngưỡng 4%.

Rủi ro tiếp tục gia tăng do tình trạng bất định toàn cầu tăng lên khi căng thẳng thương mại leo thang và biến động tài chính nhiều hơn.

WB cho rằng, trong trung hạn, tăng trưởng kinh tế được dự báo tiếp tục giảm tốc, tăng trưởng GDP năm 2020 và năm 2021 ước tính khoảng 6,5%.

Hà Nội thiệt hại khoảng 1.000 tỷ đồng vì dịch tả lợn châu Phi

Ngày 1/7, ông Chu Phú Mỹ, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội cho biết, dịch tả lợn châu Phi đã xảy ra tại 24 quận huyện, tiêu hủy hơn 414.000 con với trọng lượng khoảng 28.400 tấn.

tin tuc kinh te ngay 17 gia xang co the tang 300 donglit vao ngay mai
Dịch tả lợn châu Phi

Theo quy định của Hà Nội, chậm nhất 7 ngày chính quyền phải hỗ trợ cho người dân có lợn bị tiêu hủy. Tuy nhiên, nhiều huyện như Ứng Hòa, Quốc Oai, Thạch Thất, Sóc Sơn... đến giữa tháng 6 đã hết ngân sách dự phòng để chi trả.

"Đến nay, thiệt hại do dịch ước tính 1.000 tỷ đồng, gồm chi phí hỗ trợ tiêu hủy, hóa chất, phòng chống dịch. 10 huyện hết kinh phí dự phòng vừa được thành phố cấp thêm để đảm bảo chi trả nhanh nhất cho người dân", ông Mỹ nói.

Nông thủy sản Việt điêu đứng vì không xuất được sang Trung Quốc

Được cảnh báo từ trước nhưng nông dân không để ý đáp ứng yêu cầu chính ngạch nên bị Trung Quốc từ chối nhập khẩu.

Điển hình như huyện Núi Thành (Quảng Nam), còn 930 tấn mực khô tồn đọng, trong đó khoảng 800 tấn trên tàu ngư dân và 130 tấn trong kho của thương lái.

Không chỉ mực khô, các mặt hàng nông sản của Việt Nam như mít, sầu riêng... cũng đang bị tắc đường sang Trung Quốc do sự thay đổi chính sách nhập khẩu của nước này.

tin tuc kinh te ngay 17 gia xang co the tang 300 donglit vao ngay mai
Người dân phơi mực khô để bán

Thực tế, những khuyến cáo về thay đổi chính sách nhập khẩu hàng hóa của Trung Quốc trong năm 2019 đã được thông báo từ đầu 2018. Tuy nhiên, người dân thiếu quan tâm, thương lái thu mua cũng thiếu hiểu biết nên dẫn đến tình trạng hàng nhiều nhưng xuất không được.

Hàng hóa qua cảng biển tăng mạnh, ghi nhận con số kỷ lục

Sản lượng hàng hóa thông qua cảng biển 6 tháng đầu năm 2019 đạt hơn 308,7 triệu tấn, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2018.

Cục Hàng hải Việt Nam cho biết, 6 tháng đầu năm 2019, khối lượng hàng hóa thông qua cảng biển đạt 308.777.000 tấn, trong đó, lượng hàng hóa container đạt hơn 9,1 triệu tấn, tăng lần lượt 13% và 3% so với cùng kỳ năm 2018. Đây là con số sản lượng cao kỷ lục trong nhiều năm trở lại đây.

Nguyễn Bách

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 85,000
AVPL/SJC HCM 82,000 85,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 85,000
Nguyên liệu 9999 - HN 83,700 84,000
Nguyên liệu 999 - HN 83,500 83,900
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 85,000
Cập nhật: 20/11/2024 04:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 83.600 84.800
TPHCM - SJC 82.000 85.000
Hà Nội - PNJ 83.600 84.800
Hà Nội - SJC 82.000 85.000
Đà Nẵng - PNJ 83.600 84.800
Đà Nẵng - SJC 82.000 85.000
Miền Tây - PNJ 83.600 84.800
Miền Tây - SJC 82.000 85.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 83.600 84.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.000 85.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 83.600
Giá vàng nữ trang - SJC 82.000 85.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 83.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 83.500 84.300
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 83.420 84.220
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 82.560 83.560
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 76.820 77.320
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 61.980 63.380
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 56.070 57.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 53.550 54.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 50.170 51.570
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 48.070 49.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 33.820 35.220
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 30.360 31.760
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 26.570 27.970
Cập nhật: 20/11/2024 04:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,290 8,470
Trang sức 99.9 8,280 8,460
NL 99.99 8,330
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,280
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,380 8,480
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,380 8,480
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,380 8,480
Miếng SJC Thái Bình 8,250 8,500
Miếng SJC Nghệ An 8,250 8,500
Miếng SJC Hà Nội 8,250 8,500
Cập nhật: 20/11/2024 04:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,083.48 16,245.94 16,767.12
CAD 17,656.23 17,834.58 18,406.72
CHF 28,036.49 28,319.69 29,228.19
CNY 3,422.23 3,456.80 3,567.69
DKK - 3,541.10 3,676.70
EUR 26,217.37 26,482.19 27,654.88
GBP 31,357.35 31,674.09 32,690.20
HKD 3,181.93 3,214.07 3,317.18
INR - 300.24 312.25
JPY 158.83 160.43 168.06
KRW 15.78 17.53 19.02
KWD - 82,565.40 85,866.18
MYR - 5,630.15 5,752.94
NOK - 2,259.80 2,355.74
RUB - 242.43 268.37
SAR - 6,750.31 6,998.42
SEK - 2,280.65 2,377.48
SGD 18,493.49 18,680.29 19,279.56
THB 649.13 721.26 748.88
USD 25,175.00 25,205.00 25,507.00
Cập nhật: 20/11/2024 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,200.00 25,207.00 25,507.00
EUR 26,340.00 26,446.00 27,526.00
GBP 31,527.00 31,654.00 32,592.00
HKD 3,195.00 3,208.00 3,309.00
CHF 28,171.00 28,284.00 29,124.00
JPY 160.55 161.19 168.05
AUD 16,176.00 16,241.00 16,722.00
SGD 18,607.00 18,682.00 19,188.00
THB 714.00 717.00 747.00
CAD 17,763.00 17,834.00 18,331.00
NZD 14,673.00 15,154.00
KRW 17.46 19.17
Cập nhật: 20/11/2024 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25293 25293 25507
AUD 16154 16254 16824
CAD 17768 17868 18420
CHF 28368 28398 29201
CNY 0 3473 0
CZK 0 1011 0
DKK 0 3579 0
EUR 26382 26482 27360
GBP 31598 31648 32756
HKD 0 3266 0
JPY 162.26 162.76 169.27
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.11 0
MYR 0 5869 0
NOK 0 2284 0
NZD 0 14757 0
PHP 0 407 0
SEK 0 2307 0
SGD 18582 18712 19439
THB 0 679.8 0
TWD 0 779 0
XAU 8200000 8200000 8500000
XBJ 7800000 7800000 8500000
Cập nhật: 20/11/2024 04:00