Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Sản xuất toàn cầu "căng như dây đàn" vì thiếu cung và chi phí tăng vọt

14:42 | 02/10/2021

518 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Hoạt động sản xuất toàn cầu đang chịu ảnh hưởng lớn từ sự tắc nghẽn chuỗi cung ứng, chi phí leo thang cho đến việc hàng loạt nhà máy ở châu Á đóng cửa và dấu hiệu tăng trưởng của Trung Quốc chậm lại.

Theo Reuters, trong khi những quốc gia đã khống chế được biến thể Delta chứng kiến sự cải thiện về hoạt động sản xuất thì ở một số nước, tốc độ tăng trưởng chậm lại do tình trạng thiếu chip và gián đoạn nguồn cung đã tác động đến những nước đang phải vật lộn với dịch Covid-19.

Sản xuất toàn cầu căng như dây đàn vì thiếu cung và chi phí tăng vọt - 1
Hoạt động sản xuất của các nhà máy ở Trung Quốc bất ngờ bị thu hẹp trong tháng 9 do hạn chế sử dụng điện trên diện rộng (Ảnh: Getty).

Hàng loạt nhà máy ở châu Á đóng cửa

Động lực kinh tế suy yếu của Trung Quốc đã giáng đòn mạnh vào triển vọng tăng trưởng của khu vực. Chỉ số PMI chính thức của Trung Quốc vừa công bố hôm 30/9 cho thấy hoạt động sản xuất của các nhà máy bất ngờ bị thu hẹp trong tháng 9 do hạn chế sử dụng điện trên diện rộng.

Mặc dù chỉ số PMI tư nhân Caixin/Markit cho thấy hoạt động sản xuất tốt hơn dự kiến sau khi sụt giảm trong tháng 8 nhưng những dấu hiệu suy yếu ngày càng tăng ở nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới đang làm lu mờ triển vọng của các quốc gia láng giềng.

Nhà nghiên cứu Makoto Saito tại Viện nghiên cứu NLI cho rằng: "Trong khi những biện pháp hạn chế đại dịch làm tác động đến hoạt động kinh tế đang dần được dỡ bỏ, việc giảm tốc này xảy ra đồng nghĩa các nền kinh tế Đông Nam Á sẽ đình trệ trong thời gian còn lại của năm".

Các nhà sản xuất Nhật Bản, nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới, cũng đang phải chịu áp lực từ các hạn chế của đại dịch, sự gián đoạn chuỗi cung ứng gia tăng cũng như tình trạng thiếu nguyên liệu thô và chậm giao hàng. Chỉ số PMI của nước này cho thấy tốc độ tăng trưởng chậm nhất kể từ tháng 2.

Hoạt động sản xuất của Đài Loan tiếp tục được mở rộng nhưng với tốc độ chậm nhất trong hơn một năm qua. Trong khi chỉ số của Việt Nam vẫn không thay đổi. Chỉ số PMI của Hàn Quốc, Ấn Độ và Indonesia đều tăng.

"Trong khi các chỉ số PMI trong khu vực cho thấy sự gián đoạn do Covid-19 trong khu vực đang giảm bớt phần nào, những đơn hàng chưa thực hiện tiếp tục chồng chất, đồng nghĩa sự thiếu hụt trong chuỗi cung ứng sẽ tiếp tục duy trì trong thời gian tới", ông Alex Holmes, chuyên gia kinh tế về các nền kinh tế châu Á mới nổi tại Capital Economics.

Từng được coi là động lực của tăng trưởng toàn cầu, các nền kinh tế mới nổi của châu Á đang phục hồi chậm hơn so với các nền kinh tế tiên tiến. Sự chậm trễ trong việc triển khai vắc xin cùng với sự gia tăng đột biến ca nhiễm biến thể Delta đã ảnh hưởng đến tiêu dùng và sản xuất của các nhà máy.

Châu Âu thiếu hàng hóa, nguyên liệu

Tăng trưởng sản xuất tại khu vực đồng tiền chung châu Âu và Anh vẫn mạnh nhưng hoạt động sản xuất phải đối mặt với các vấn đề về logistic, thiếu hụt sản phẩm và khan hiếm lao động có khả năng kéo dài và tiếp tục gây sức ép lên lạm phát.

"Mặc dù một số tắc nghẽn sẽ sớm được tháo gỡ nhưng nhiều lĩnh vực, đặc biệt là những lĩnh vực đòi hỏi chất bán dẫn, có khả năng phải chịu sự gián đoạn trong phần lớn của năm 2022", ông Martin Beck, cố vấn cấp cao của Câu lạc bộ EY ITEM nói và cho rằng điều này báo hiệu hoạt động sản xuất có thể vẫn bị hạn chế trong thời gian tới.

Chỉ số PMI sản xuất cuối cùng của IHS Markit đã giảm xuống 58,6 điểm trong tháng 9 so với mức 61,4 điểm trong tháng 8. Chỉ số PMI của Ah cũng giảm trong tháng thứ 4 liên tiếp, từ 57,1 điểm xuống 60,3 điểm.

Các nhà máy ở Đức, nền kinh tế lớn nhất châu Âu, hầu như không bị xáo trộn trong thời gian đóng cửa để ngăn chặn sự lây lan của dịch nhưng tình trạng thiếu hàng hóa trung gian và một số nguyên liệu thô đang kìm hãm sản xuất.

Chỉ số PMI của Pháp cũng cho thấy, tăng trưởng sản xuất của nước này suy yếu hơn một chút so với dự báo ban đầu do các vấn đề về nguồn cung đè nặng lên ngành sản xuất của nước này.

Theo Dân trí

Tin mới nhất về tình hình Covid-19 trên thế giới - ngày 2/10Tin mới nhất về tình hình Covid-19 trên thế giới - ngày 2/10
Thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19Thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19
Thủ tướng yêu cầu tập trung phòng, chống dịch, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, thúc đẩy phát triển KTXHThủ tướng yêu cầu tập trung phòng, chống dịch, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, thúc đẩy phát triển KTXH
Tổng Cục trưởng Tổng cục Thống kê: Tăng trưởng kinh tế cả năm khó âmTổng Cục trưởng Tổng cục Thống kê: Tăng trưởng kinh tế cả năm khó âm
Chủ tịch Dragon Capital: Cơ hội vẫn còn, Việt Nam phải sớm hành độngChủ tịch Dragon Capital: Cơ hội vẫn còn, Việt Nam phải sớm hành động
Bài 3: Vốn FDI trong dịch COVID-19: Địa phương vào cuộc, doanh nghiệp quyết tâm caoBài 3: Vốn FDI trong dịch COVID-19: Địa phương vào cuộc, doanh nghiệp quyết tâm cao
Chủ tịch Pfizer: Cuộc sống sẽ trở lại bình thường trong một năm nữaChủ tịch Pfizer: Cuộc sống sẽ trở lại bình thường trong một năm nữa
Bài 2: Sẵn sàng đón thêm làn sóng đầu tư mới?Bài 2: Sẵn sàng đón thêm làn sóng đầu tư mới?

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 87,000 ▲1000K 89,000 ▲1000K
AVPL/SJC HCM 87,000 ▲1000K 89,000 ▲1000K
AVPL/SJC ĐN 87,000 ▲1000K 89,000 ▲1000K
Nguyên liệu 9999 - HN 86,700 ▲800K 87,100 ▲800K
Nguyên liệu 999 - HN 86,600 ▲800K 87,000 ▲800K
AVPL/SJC Cần Thơ 87,000 ▲1000K 89,000 ▲1000K
Cập nhật: 22/10/2024 20:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 86.300 ▲500K 87.600 ▲850K
TPHCM - SJC 87.000 ▲1000K 89.000 ▲1000K
Hà Nội - PNJ 86.300 ▲500K 87.600 ▲850K
Hà Nội - SJC 87.000 ▲1000K 89.000 ▲1000K
Đà Nẵng - PNJ 86.300 ▲500K 87.600 ▲850K
Đà Nẵng - SJC 87.000 ▲1000K 89.000 ▲1000K
Miền Tây - PNJ 86.300 ▲500K 87.600 ▲850K
Miền Tây - SJC 87.000 ▲1000K 89.000 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 86.300 ▲500K 87.600 ▲850K
Giá vàng nữ trang - SJC 87.000 ▲1000K 89.000 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 86.300 ▲500K
Giá vàng nữ trang - SJC 87.000 ▲1000K 89.000 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 86.300 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 86.200 ▲600K 87.000 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 86.110 ▲600K 86.910 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 85.230 ▲590K 86.230 ▲590K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 79.290 ▲550K 79.790 ▲550K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 64.000 ▲450K 65.400 ▲450K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 57.910 ▲410K 59.310 ▲410K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 55.300 ▲390K 56.700 ▲390K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 51.820 ▲370K 53.220 ▲370K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 49.650 ▲360K 51.050 ▲360K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 34.940 ▲250K 36.340 ▲250K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 31.380 ▲230K 32.780 ▲230K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 27.460 ▲200K 28.860 ▲200K
Cập nhật: 22/10/2024 20:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,580 ▲90K 8,770 ▲100K
Trang sức 99.9 8,570 ▲90K 8,760 ▲100K
NL 99.99 8,645 ▲95K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,600 ▲90K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,670 ▲90K 8,780 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,670 ▲90K 8,780 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,670 ▲90K 8,780 ▲100K
Miếng SJC Thái Bình 8,700 ▲100K 8,900 ▲100K
Miếng SJC Nghệ An 8,700 ▲100K 8,900 ▲100K
Miếng SJC Hà Nội 8,700 ▲100K 8,900 ▲100K
Cập nhật: 22/10/2024 20:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,532.77 16,699.77 17,235.54
CAD 17,888.59 18,069.29 18,649.00
CHF 28,594.44 28,883.28 29,809.93
CNY 3,471.63 3,506.69 3,619.20
DKK - 3,614.66 3,753.09
EUR 26,759.46 27,029.75 28,226.76
GBP 32,158.32 32,483.15 33,525.30
HKD 3,180.47 3,212.60 3,315.67
INR - 300.94 312.97
JPY 162.40 164.04 171.84
KRW 15.90 17.66 19.17
KWD - 82,569.85 85,871.02
MYR - 5,812.65 5,939.43
NOK - 2,273.81 2,370.35
RUB - 250.57 277.39
SAR - 6,737.16 7,006.52
SEK - 2,357.65 2,457.75
SGD 18,798.46 18,988.34 19,597.54
THB 669.00 743.34 771.80
USD 25,062.00 25,092.00 25,452.00
Cập nhật: 22/10/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,100.00 25,120.00 25,452.00
EUR 26,818.00 26,926.00 28,046.00
GBP 32,213.00 32,342.00 33,329.00
HKD 3,187.00 3,200.00 3,306.00
CHF 28,684.00 28,799.00 29,683.00
JPY 164.04 164.70 172.06
AUD 16,514.00 16,580.00 17,087.00
SGD 18,873.00 18,949.00 19,494.00
THB 735.00 738.00 771.00
CAD 17,942.00 18,014.00 18,545.00
NZD 14,993.00 15,496.00
KRW 17.55 19.31
Cập nhật: 22/10/2024 20:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25180 25180 25452
AUD 16595 16695 17257
CAD 17990 18090 18642
CHF 28902 28932 29739
CNY 0 3527 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3638 0
EUR 27013 27113 27991
GBP 32456 32506 33608
HKD 0 3220 0
JPY 165.01 165.51 172.02
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.054 0
MYR 0 5974 0
NOK 0 2304 0
NZD 0 15151 0
PHP 0 408 0
SEK 0 2395 0
SGD 18910 19040 19761
THB 0 701.9 0
TWD 0 772 0
XAU 8700000 8700000 8900000
XBJ 7900000 7900000 8500000
Cập nhật: 22/10/2024 20:00