Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Nikkei: Việt Nam là nền kinh tế duy nhất "chiến thắng" đại dịch ở ASEAN

22:43 | 19/11/2020

122 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo Nikkei, Việt Nam đang trở thành câu chuyện kinh tế thành công duy nhất của Đông Nam Á trong kỷ nguyên Covid-19.
Nikkei: Việt Nam là nền kinh tế duy nhất chiến thắng đại dịch ở ASEAN - 1
Xuất khẩu gia tăng và việc kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 đã giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển bất chấp đại dịch. (Ảnh: Reuters)

Trong khi các nền kinh tế khác trong khu vực vẫn đang vật lộn để phục hồi từ đại dịch, Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng dương ổn định.

Quý 3/2020, tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn đạt mức 2,6%, đánh dấu mức tăng trưởng quý thứ 2 liên tiếp trong bối cảnh đại dịch.

Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), GDP danh nghĩa của Việt Nam hiện tăng lên vị trí thứ 4 trong nhóm các nước khu vực Đông Nam Á, vượt qua cả Singapore, Malaysia và Philippines.

Trái ngược với các nền kinh tế khác trong ASEAN, Việt Nam đã thành công trong việc kiểm soát virus corona. Kinh tế Việt Nam được hỗ trợ bởi tăng trưởng xuất khẩu và được hưởng lợi nhờ các doanh nghiệp lớn chuyển hoạt động sản xuất ra khỏi Trung Quốc.

Đến tháng 10, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã đạt 26,7 tỷ USD, tăng 9,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Bộ Công Thương dự báo, kim ngạch xuất khẩu cả năm sẽ tăng khoảng 3-4%.

Cuối tháng 10 vừa qua, một siêu tàu container do hãng Maersk vận hành lần đầu tiên đã cập cảng Cái Mép - cảng lớn nhất ở khu vực phía Nam. Trước đây, các tàu này thường chọn các cảng lớn trong khu vực như Singapore làm nơi tập kết.

Tuy nhiên, khi hoạt động xuất khẩu của Việt Nam ngày càng sôi động, nhu cầu vận tải biển gia tăng, các hãng tàu lớn trên thế giới không thể bỏ qua thị trường này. Điều đó cho phép hàng hoá của Việt Nam giảm được chi phí và rút ngắn thời gian vận chuyển, qua đó có thể cạnh tranh tốt hơn, tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng nhiều hơn.

Theo Nikkei, Việt Nam cũng được hưởng lợi nhờ cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc khi các nhà sản xuất chuyển nhà máy ra khỏi Trung Quốc để tránh thuế quan của Mỹ.

Hiện nhiều tập đoàn đa quốc gia và cả các doanh nghiệp Trung Quốc đều chuyển hoạt động sản xuất sang Việt Nam để tận dụng nguồn lao động giá rẻ, có tay nghề cao.

Công ty sản xuất điện thoại thông minh Samsung Electronics cũng có ý định chuyển hoạt động sản xuất máy tính cá nhân sang Việt Nam khi đóng cửa một nhà máy ở Trung Quốc.

Cho đến nay, Việt Nam mới công bố có khoảng 1.300 trường hợp nhiễm virus corona. Việt Nam vẫn đang tiếp tục giảm thiểu những tác động của đại dịch đối với nền kinh tế. Việt Nam đã áp đặt lệnh giãn cách xã hội trên toàn quốc chỉ trong ba tuần vào tháng 4 và hiện hoạt động sản xuất đã bình thường đã trở lại.

Theo đánh giá của Nikkei, nền kinh tế đã hồi phục nhanh hơn so với những nơi khác trong khu vực. Tỷ lệ thất nghiệp được hạn chế và chi tiêu của người tiêu dùng, chiếm 70% GDP, vẫn ổn định.

Trong khi đó, các quốc gia khác trong ASEAN vẫn chưa thoát khỏi sự sụt giảm do tác động của đại dịch. Theo dự đoán của IMF, tăng trưởng GDP cả năm nay của Việt Nam sẽ ở mức 1,6%, trong khi Singapore và Malaysia giảm 6%, Thái Lan giảm 7,1%.

Nền kinh tế của Malaysia đã đánh dấu mức sụt giảm 2,7% trong quý 3 vừa qua. Trong đó, lĩnh vực dịch vụ, nơi đóng góp gần 60% GDP của nước này, cũng giảm 4%.

Hồi đầu tuần, Thái Lan cũng đã công bố dữ liệu kinh tế cho thấy GDP nước này tiếp tục giảm 6,4%, đánh dấu quý giảm thứ 3 liên tiếp.

GDP bình quần đầu người của Việt Nam hiện khoảng 3.500 USD/người, thấp hơn so với mức 58.500 USD/người của Singapore và 10.200 USD/người của Malaysia. Tuy nhiên, đại dịch đang làm thay đổi trật tự kinh tế của khu vực này.

Ở Indonesia - nền kinh tế lớn nhất khu vực Đông Nam Á, số lượng các ca lây nhiễm Covid-19 đang tăng lên mức cao mới. Trong khi từ tháng trước Malaysia đang phải vật lộn với làn sóng Covid-19 thứ hai.

Theo Nikkei, chừng nào mức độ lây nhiễm còn cao thì các hoạt động kinh tế vẫn tiếp tục đình trệ do người tiêu dùng hạn chế ra ngoài, do đó, sự phục hồi kinh tế ngày càng lâu hơn.

Dự báo của Nikkei cho thấy, mặc dù một số nền kinh tế trong ASEAN sẽ hồi phục mạnh trong năm tới, nhưng Việt Nam vẫn là nền kinh tế duy nhất có mức tăng trưởng dương trong nửa đầu năm 2021. Song điều này vẫn còn phụ thuộc vào diễn biến của đại dịch.

Nikkei cũng nhận định, Tổng thống Mỹ đắc cử Joe Biden được cho là vẫn sẽ duy trì quan điểm cứng rắn với Trung Quốc, song nếu ông Biden dỡ bỏ các lệnh trừng phạt thuế quan đối với hàng hoá Trung Quốc thì việc di dời hoạt động sản xuất sang Việt Nam có thể chậm lại.

Theo Dân trí

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 80,000 82,000
AVPL/SJC HCM 80,000 82,000
AVPL/SJC ĐN 80,000 82,000
Nguyên liệu 9999 - HN 80,050 80,150
Nguyên liệu 999 - HN 79,950 80,050
AVPL/SJC Cần Thơ 80,000 82,000
Cập nhật: 24/09/2024 00:04
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 79.900 81.100
TPHCM - SJC 80.000 82.000
Hà Nội - PNJ 79.900 81.100
Hà Nội - SJC 80.000 82.000
Đà Nẵng - PNJ 79.900 81.100
Đà Nẵng - SJC 80.000 82.000
Miền Tây - PNJ 79.900 81.100
Miền Tây - SJC 80.000 82.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 79.900 81.100
Giá vàng nữ trang - SJC 80.000 82.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 79.900
Giá vàng nữ trang - SJC 80.000 82.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 79.900
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 79.700 80.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 79.620 80.420
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 78.800 79.800
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 73.340 73.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 59.130 60.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 53.490 54.890
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 51.080 52.480
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 47.860 49.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 45.840 47.240
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 32.240 33.640
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.940 30.340
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 25.320 26.720
Cập nhật: 24/09/2024 00:04
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,905 8,080
Trang sức 99.9 7,895 8,070
NL 99.99 7,940
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,940
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,010 8,120
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,010 8,120
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,010 8,120
Miếng SJC Thái Bình 8,000 8,200
Miếng SJC Nghệ An 8,000 8,200
Miếng SJC Hà Nội 8,000 8,200
Cập nhật: 24/09/2024 00:04
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 80,000 82,000
SJC 5c 80,000 82,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 80,000 82,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 79,500 80,800
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 79,500 80,900
Nữ Trang 99.99% 79,400 80,400
Nữ Trang 99% 77,604 79,604
Nữ Trang 68% 52,327 54,827
Nữ Trang 41.7% 31,180 33,680
Cập nhật: 24/09/2024 00:04

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,333.34 16,498.32 17,028.44
CAD 17,675.88 17,854.42 18,428.12
CHF 28,193.38 28,478.16 29,393.21
CNY 3,417.83 3,452.35 3,563.82
DKK - 3,596.00 3,733.89
EUR 26,623.87 26,892.80 28,085.07
GBP 31,817.13 32,138.52 33,171.18
HKD 3,082.47 3,113.61 3,213.66
INR - 293.98 305.75
JPY 165.47 167.14 175.10
KRW 15.91 17.68 19.19
KWD - 80,527.47 83,750.96
MYR - 5,797.37 5,924.10
NOK - 2,293.20 2,390.68
RUB - 252.57 279.61
SAR - 6,545.38 6,807.39
SEK - 2,359.98 2,460.29
SGD 18,568.76 18,756.33 19,359.00
THB 660.11 733.46 761.58
USD 24,430.00 24,460.00 24,800.00
Cập nhật: 24/09/2024 00:04
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,410.00 24,430.00 24,770.00
EUR 26,908.00 27,016.00 28,135.00
GBP 32,121.00 32,250.00 33,244.00
HKD 3,094.00 3,106.00 3,210.00
CHF 28,356.00 28,470.00 29,355.00
JPY 166.11 166.78 174.58
AUD 16,450.00 16,516.00 17,026.00
SGD 18,706.00 18,781.00 19,339.00
THB 726.00 729.00 762.00
CAD 17,794.00 17,865.00 18,410.00
NZD 15,082.00 15,589.00
KRW 17.65 19.49
Cập nhật: 24/09/2024 00:04
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24460 24460 24800
AUD 16466 16516 17128
CAD 17847 17897 18454
CHF 28595 28695 29298
CNY 0 3455.7 0
CZK 0 1044 0
DKK 0 3663 0
EUR 26966 27016 27819
GBP 32305 32355 33118
HKD 0 3155 0
JPY 168.69 169.19 175.75
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.023 0
MYR 0 5974 0
NOK 0 2317 0
NZD 0 15147 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2405 0
SGD 18753 18803 19455
THB 0 706.6 0
TWD 0 768 0
XAU 8100000 8100000 8200000
XBJ 7400000 7400000 7800000
Cập nhật: 24/09/2024 00:04