Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Những công nghệ CCS mới, tiên tiến năm 2024 (Kỳ 5)

17:20 | 29/09/2024

21,304 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Công ty Baker Hughes (BH) là một công ty năng lượng đặt trụ sở tại thành phố Houston (tiểu bang Texas, Hoa Kỳ) và là một trong số những công ty dịch vụ mỏ dầu lớn nhất thế giới, chuyên cung cấp các sản phẩm và dịch vụ khoan giếng dầu, đánh giá quá trình hình thành, hoàn thiện, sản xuất, tư vấn bể hồ chứa và dịch vụ vận hành đường ống dẫn.

* Quá trình ammonia làm lạnh (Chilled Ammonia Process-CAP)

Quá trình ammonia làm lạnh đã được BH phát triển để giải quyết những thách thức trong việc loại bỏ carbon dioxide khỏi khí thải áp suất thấp, được tạo ra bởi các nhà máy điện chạy bằng nhiên liệu hóa thạch và các điểm phát thải công nghiệp. CAP là một quá trình thu giữ carbon sau quá trình đốt cháy sử dụng công thức dung môi không độc quyền dựa trên ammonia. Ammonia là một loại hóa chất vô cơ, có chi phí thấp, sẵn có trên thị trường toàn cầu từ nhiều nguồn và không bị ràng buộc với bất kỳ nhà cung cấp cụ thể nào, đồng thời nó cũng ổn định, chịu được các chất gây ô nhiễm khí thải và thường biểu hiện rất thấp và sự mất mát có thể kiểm soát được trong quá trình CAP. Hơn thế nữa, ammonia xanh green (được sản xuất từ ​​hydrogen xanh green) có thể được sử dụng thay thế ammonia thông thường trong quá trình CAP.

Những công nghệ CCS mới, tiên tiến năm 2024 (Kỳ 5)

Lợi ích: Chứng tỏ mức tiêu thụ năng lượng nhiệt riêng thấp là 2,6 GJ/tấn CO₂; sử dụng ammonia là một loại hóa chất thông thường dễ mua và không bị ràng buộc với nhà cung cấp cụ thể; thuốc thử ổn định song không giống như các hệ dung môi gốc amine, nó không bị phân hủy do nhiệt và oxygen hóa; linh hoạt cho quá trình tích hợp, điều này cho phép sử dụng nhiệt thải trực tiếp ở nhiệt độ cao một cách hiệu quả hoặc gia nhiệt trực tiếp mà không làm giảm hiệu suất của dung môi; chịu được oxygen hóa trong khí thải và các chất gây ô nhiễm như SOx và NOx; tạo ra ít khí thải độc hại hơn và các sản phẩm phụ có khả năng hữu ích; tái sinh CO₂ ở mức cao độ tinh khiết (trên 99,5%) ở áp suất cao, do đó cần ít năng lượng nén hơn cho sản phẩm CO₂ hạ nguồn.

Mô tả công nghệ: Quá trình ammonia làm lạnh (CAP) sử dụng giải pháp dung dịch nước carbonate ammonia hóa để hấp thụ CO₂ từ khí thải ở áp suất xung quanh và nhiệt độ thấp. Không giống như các công nghệ khác, hiện chức năng của dung dịch ammonia không bị ảnh hưởng bởi oxygen và dễ dàng loại bỏ các muối ổn định nhiệt được hình thành bởi các thành phần acid vi lượng, có thể vượt qua các bước tiền xử lý khí thải chuyên dụng. Hơn thế nữa, do khí thải và dòng chất thải lỏng không độc hại nên không cần có cơ sở xử lý bổ sung.

Khí thải đầu vào trước tiên được làm mát thông qua bộ làm mát tiếp xúc trực tiếp (direct contact cooler-DCC) cho phép khí tiếp xúc với nước làm mát và làm lạnh để hạ nhiệt độ khí thải xuống mức thích hợp (thường dưới 15°C), điều rất cần thiết cho quá trình hấp thụ CO₂ và cân bằng nước. Phần lớn hơi nước có trong khí thải được loại bỏ ở bước này, làm giảm lưu lượng thể tích khí và làm tăng nồng độ CO₂. Đối với các dung môi gốc amine thông thường, cần phải có bước xử lý trước khí thải, thường được tích hợp với DCC để giảm NOx, SOx và các chất gây ô nhiễm khác trong khí thải xuống mức rất thấp nhằm giảm sự phân hủy và hình thành muối ổn định nhiệt khi khí thải tương tác với dung môi. Tuy nhiên, đối với CAP, bước tiền xử lý này thường không bắt buộc vì dung môi gốc ammonia có thể chịu được các chất gây ô nhiễm khí thải này. Các acid mạnh như SOx phản ứng với ammonia và tạo thành muối bền nhiệt, được rút ra khỏi hệ thống dưới dạng sản phẩm phụ chứa nước.

Khí thải được làm mát từ DCC đi vào đáy cột tháp hấp thụ (absorber column), nơi nó được rửa ngược dòng hiện tại bằng dung môi gốc ammonia nghèo. CO₂ được loại bỏ có chọn lọc khỏi khí thải trong quá trình hấp thụ hóa học bằng dung môi kiềm. Dung môi nghèo là dung dịch bao gồm ammonia, nước và CO₂ trong đó các loại khác nhau ((ammonium carbamate, ammonium bicarbonate, ammonium carbonate và một lượng giới hạn ammonia tự do trong dung dịch nước) ở trạng thái cân bằng. Các loại ammonia hòa tan phản ứng với CO₂ từ khí thải trong thiết bị hấp thụ bằng cách chuyển trạng thái cân bằng của chúng về phía bicarbonate. Dung môi giàu CO₂ rời khỏi đáy thiết bị hấp thụ và được đưa đến bộ phận tái sinh, tại đây nó được đun nóng đến nhiệt độ đủ cao để CO₂ thoát ra khỏi dung môi. Một lò đun lại nằm ở dưới cùng của cột tái sinh (regenerator column) cung cấp nhiệt cho dung môi. Nguồn sưởi ấm thường là hơi nước, mặc dù dầu nóng hoặc nhiệt từ lò sưởi đốt trực tiếp hoặc điện cũng có thể được sử dụng do không bị suy giảm nhiệt.

Nhiệt được truyền vào dung môi để chuyển trạng thái cân bằng sang dạng giàu ammonia giải phóng CO₂ được hấp thụ, chất này để lại trên đỉnh cột tái sinh. So với các công nghệ sau đốt dựa trên amine tái sinh CO₂ ở áp suất gần bằng khí quyển, CAP tái sinh CO₂ ở áp suất cao (từ 14 bar - 25 bar(a)), giúp giảm yêu cầu về công suất nén ở hạ nguồn. Dung môi nghèo tái sinh được đưa trở lại thiết bị hấp thụ sau khi trải qua quá trình làm mát thông qua trao đổi nhiệt với dung môi giàu lạnh trong bộ trao đổi nhiệt giàu-nghèo, đồng thời làm nóng dung môi giàu-nghèo. Đây là bước tích hợp nhiệt quan trọng giúp giảm đáng kể yêu cầu về nhiệt của lò hơi.

Khí thải đã qua xử lý thoát ra khỏi đỉnh cột hấp thụ có chứa CO₂ tồn dư và ammonia và chúng được thu hồi bằng bước rửa nước để ngăn chặn lượng phát thải ammonia không thể chấp nhận được thoát ra vào khí quyển. Sau bước rửa nước, khí thải thì được dẫn đến bộ gia nhiệt khí thải. Một hệ thống bảo vệ được tích hợp với bộ gia nhiệt khí thải, dựa vào việc phun acid sulfuric để trung hòa lượng ammonia tồn dư, chuyển nó thành ammonium sulphate. Khí thải được làm nóng lại bằng nước ấm ngưng tụ từ DCC, giúp tăng nhiệt độ của khí thải được xử lý cuối cùng lên nhiệt độ đủ cao để thoát vào ống khói và tối ưu hóa cân bằng nước của hệ thống. Dung môi gốc amine có xu hướng phân hủy do tiếp xúc với môi trường nóng (phân hủy nhiệt), khi có mặt oxygen (phân hủy oxygen hóa) và trong các phản ứng khí acid (như NOx). Sự xuống cấp dẫn đến giảm hiệu suất, mất dung môi, ăn mòn thiết bị và tạo ra các hợp chất phân hủy dễ bay hơi được thải vào khí thải đã xử lý, bao gồm cả nitrosamine , được biết đến là chất gây ung thư (carcinogens). Hiện tượng phân hủy như vậy không xảy ra đối với CAP vì quá trình này sử dụng dung môi vô cơ gốc ammonia. CAP có thêm ưu điểm là có thể tái tạo CO₂ ở áp suất cao, giúp giảm chi phí năng lượng để hóa lỏng hoặc nén thêm CO₂ ở hạ nguồn.

CAP đã được xác nhận triển khai tại một số cơ sở thử nghiệm với công suất thiết kế lên tới 100 ktpa CO₂, xử lý khí thải từ nồi hơi dầu, nồi hơi than và khí thải công nghiệp. Một nhà máy CAP cũng đã được thiết kế để thu giữ tới 80 ktpa CO₂ được vận hành tại Trung tâm thực nghiệm Mongstad (Test Centre Mongstad-TCM) ở Vương quốc Na Uy trong 2 năm, nơi nó cho thấy mức tiêu thụ năng lượng nhiệt riêng thấp ở mức 2,6 GJ/tấn CO₂ đối với khí thải của nhà máy lọc dầu cracker (từ 12,5% -16,0% CO₂). Thử nghiệm tại TCM cũng đã chứng minh khả năng khởi động nhanh, lượng khí thải ammonia thấp, độ tinh khiết sản phẩm CO₂ cao và đáp ứng tỷ lệ thu giữ CO₂ của CAP.

* Thu hồi carbon gọn nhẹ (COMPACT CARBON CAPTURE-CCC)

Thu hồi carbon gọn nhẹ (CCC) là sự phát triển công nghệ tiên phong trong danh mục công nghệ CCUS của Baker Hughes. Hiện CCC sử dụng công nghệ giường đóng gói quay (Rotating Packed Bed-RPB), một phương pháp tăng cường quá trình mới sử dụng gia tốc ly tâm để tăng cường truyền khối, giúp giảm kích thước và chi phí thiết bị. CCC được phát triển cho các ứng dụng sau đốt và cho lượng khí thải từ nhỏ đến trung bình. Bằng cách sử dụng công nghệ RPB, CCC đã gia tăng đáng kể diện tích tiếp xúc hơi-chất lỏng, khắc phục những hạn chế về thủy lực truyền thống. So với các hệ thống dựa trên dung môi thông thường sử dụng thiết bị tĩnh, khả năng truyền khối nâng cao của CCC giúp giảm thời gian lưu trú trong thiết bị hấp thụ và thiết bị tái sinh cần thiết bị nhỏ hơn nhiều. CCC cũng đề xuất tích hợp máy tái sinh và nồi hơi lại vào một thiết bị độc đáo, giúp giảm thêm dấu chân của nhà máy. CCC hiện đã được chứng nhận trong thử nghiệm thí điểm ở mức 1,7 ktpa CO₂ tại các cơ sở thử nghiệm của hãng Equinor ở Porsgrunn (Vương quốc Na Uy). Hiện những sự phát triển tiếp theo đang được tiến hành, với một nhà máy trình diễn ở quy mô 5 ktpa hiện đang trong phase EPC (thiết kế, mua sắm và xây dựng).

Lợi ích: Tỷ lệ thu giữ CO₂ tối thiểu 95% đối với khí thải có nồng độ CO₂ 10%. So với các nhà máy thu hồi CO₂ thông thường: Giảm tới 50% vốn CAPEX; kích thước thiết bị cao và giảm dấu chân carbon; giảm chi phí vận hành do tồn kho dung môi thấp hơn; tiêu thụ điện năng thấp hơn cho việc vận chuyển (nén) CO₂ bởi vì CO₂ có thể được tái tạo ở áp suất cao hơn; giảm thời gian thực hiện thông qua tư duy thiết kế giải pháp modules hóa nhằm đơn giản hóa hoạt động hậu cần và cắt giảm nhu cầu đối với các công trình dân dụng.

Mô tả công nghệ: Thu hồi carbon nhỏ gọn đã biến đổi thiết bị xử lý được sử dụng trong thu hồi carbon sau đốt bằng cách đưa vào vòng quay và lực G cao là lực hấp dẫn tương đương là lực khối lượng riêng (lực trên một đơn vị khối lượng), được biểu thị bằng đơn vị trọng lực chuẩn nhằm mục tiêu để thu giữ CO₂.

Phân đoạn hấp thụ: Trong hệ thống giải hấp carbon quay (Rotating Desorber), lực G được tạo ra trong một số lớp đệm quay dòng chảy ngang. Dung môi nghèo CO₂ được phân bổ từ trục trong và văng ra ngoài theo phương ngang theo hướng thành cột, đồng thời khí thải di chuyển theo phương thẳng đứng từ dưới lên trên. Sự truyền khối diễn ra giữa khí thải và dung môi theo kiểu sắp xếp dòng chảy chéo.

Do sự quay của giường đóng gói (packed bed) trong cột tạo ra lực ly tâm lớn, dung môi được tăng tốc khi va chạm vào cấu trúcđóng gói, tạo thành những giọt nhỏ. Điều này tạo ra diện tích tiếp xúc hơi-chất lỏng lớn so với sự truyền khối tĩnh thông thường dựa vào trọng lực. Diện tích tiếp xúc lớn hơn giữa khí và chất lỏng dẫn đến sự truyền khối lượng CO₂ từ khí thải vào các giọt dung môi nhanh hơn, điều này dẫn đến chiều cao cột tháp hấp thụ ngắn hơn nhiều so với các cột thông thường truyền thống. Thời gian tiếp xúc ngắn đã cho phép vận hành với dung môi có độ nhớt cao giúp cải thiện hiệu quả quá trình. Dung môi đậm đặc cao hơn dẫn đến tỷ lệ hấp thụ cao hơn. Khi điều này được kết hợp với tính gọn nhẹ do quá trình tăng cường quá trình đem lại thì cần có lượng dung môi tồn lưu thấp hơn đáng kể, dẫn đến công suất và kích thước của máy bơm cũng như các thiết bị khác chịu trách nhiệm xử lý dung môi nhỏ hơn.

Phân đoạn tái sinh: Bộ giải hấp quay là một thiết bị nhỏ gọn kết hợp với bộ khởi động lại và bộ tháo khí, có thể hoạt động ở áp suất cao hơn và có thể xử lý các dung môi có độ nhớt cao. Tốc độ quay cao của bộ giải hấp tạo ra nhiễu loạn và lực G cao cho quá trình tái tạo dung môi, thuận lợi cho việc truyền khối lượng và nhiệt, tạo nên một thiết bị rất nhỏ gọn. Bộ giải hấp quay có thể được mô tả như một bộ trao đổi nhiệt dạng vỏ và ống có áp suất nhẹ, trong đó bó ống “mặt nóng” quay để tạo ra lực ly tâm cần thiết để tạo ra các giọt dung môi nhỏ. Thay vì cột tái sinh tĩnh có bộ hồi phục kèm theo trong hệ thống dựa trên dung môi thông thường, CCC sẽ có một bệ quay/thùng quay nhỏ gọn duy nhất làm nóng dung môi giàu và loại bỏ CO₂ để tạo ra dòng sản phẩm CO₂ có độ tinh khiết cao (trên 99%).

* Quá trình muối hỗn hợp (MIXED-SALT PROCESS)

Hiện Baker Hughes đang sử dụng quá trình muối hỗn hợp (Mixed-Salt Process-MSP) để thu giữ CO₂ theo giấy phép của SRI International là một tổ chức và viện nghiên cứu khoa học phi lợi nhuận có trụ sở tại Hoa Kỳ-cũng đã nhận được hỗ trợ từ Văn phòng năng lượng hóa thạch (Office of Fossil Energy) và Phòng thí nghiệm công nghệ năng lượng quốc gia (National Energy Technology Laboratory-NETL) trực thuộc DOE để phát triển công nghệ này. MSP là quá trình thu giữ carbon sau quá trình đốt cháy sử dụng công thức dung môi mới dựa trên muối kali carbonate (potassium carbonate) và muối ammonium (ammonium salts). Cả hai loại hóa chất này đều là hóa chất hàng hóa vô cơ, chi phí thấp và sẵn có trên thị trường toàn cầu từ nhiều nguồn khác nhau. Dung môi vô cơ được MSP sử dụng có khả năng chịu được các chất gây ô nhiễm khí thải (như SOx, NOx và O₂), không bị ảnh hưởng bởi sự phân hủy nhiệt và oxygen hóa, dẫn đến lượng khí thải thấp hơn, độc tính thấp hơn và áp suất tái sinh CO₂ cao hơn so với các dung dịch gốc amine thông thường. MSP đã được chứng minh kiểm định đạt được công suất 0,25 tấn/ngày lắp đặt ngay tại cơ sở chính của SRI International tại Menlo Park (tiểu bang California, Hoa Kỳ). Một nhà máy quy mô thí điểm công suất 10 tấn/ngày để trình diễn công nghệ MSP tại Trung tâm thu giữ carbon quốc gia ở tiểu bang Alabama hiện cũng đang trong giai đoạn xây dựng lắp đặt.

Lợi ích: Giảm mức tiêu thụ năng lượng của lò đun lại từ 2,0 GJ/tấn – 2,3 GJ/tấn CO₂; sử dụng các hóa chất rẻ tiền, sẵn có trong công nghiệp (muối kali và ammonium: potassium and ammonium salts); thuốc thử ổn định; không giống như các hệ dung môi gốc amine , nó không bị phân hủy do nhiệt và oxygen hóa; chịu được oxygen trong khí thải và các chất gây ô nhiễm như SOx và NOx; tái tạo CO₂ ở áp suất cao, do đó cần ít năng lượng nén hơn cho sản phẩm CO₂ hạ nguồn; giảm tải điện phụ trợ.

Mô tả công nghệ: MSP là công nghệ sau đốt có thể áp dụng cho nhiều loại khí thải và sử dụng hỗn hợp muối gốc ammonium và kali (potassium-based salts) để hấp thụ CO₂ từ khí thải ở áp suất và nhiệt độ xung quanh. Độ ổn định của dung môi vô cơ được sử dụng bởi dung dịch ammonium của MSP không bị ảnh hưởng bởi oxygen, điều này cho thấy khả năng chịu đựng cao đối với các thành phần vi lượng có tính acid có trong khí thải đi vào. Quá trình này được đặc trưng bởi lượng khí thải rất thấp và tạo ra ít hoặc không có chất thải độc hại hơn.

Khí thải đầu vào trước tiên được làm mát đến từ 20°C - 30°C trong bộ làm mát tiếp xúc trực tiếp (direct contact cooler-DCC), sau đó đi vào thiết bị hấp thụ 1, nơi nó tiếp xúc ngược dòng với dung môi muối hỗn hợp. Dung môi muối hỗn hợp trong thiết bị hấp thụ 1 có nồng độ các chất gốc ammonium cao hơn các chất gốc kali (potassium-based species) (tỷ lệ ammonia/kali: potassium cao), thực hiện loại bỏ lượng lớn CO₂, hấp thụ từ 60%-80% lượng CO₂ có trong khí thải. Số CO₂ còn lại được hấp thụ trong thiết bị hấp thụ 2 hoạt động với dung môi hỗn hợp muối có tỷ lệ giữa các loại gốc ammonium và các loại gốc kali thấp hơn so với lượng cấp dung môi của thiết bịt hấp thụ 1. Thiết bị hấp thụ 2 thực hiện việc loại bỏ CO₂ để đạt được hiệu suất tổng tỷ lệ thu giữ CO₂ trên 90% và giảm lượng ammonia thoát ra từ thiết bị hấp thụ 1. Hệ thống rửa nước nằm ở phía trên của thiết bị hấp thụ 2 còn làm giảm hàm lượng ammonia trong khí thải đã xử lý để đảm bảo việc nó đáp ứng các giới hạn phát thải ammonia.

Cả hai thiết bị hấp thụ trên đều hoạt động bằng cách tái chế chất lỏng bằng cách sử dụng bộ trao đổi nhiệt để loại bỏ nhiệt của phản ứng và giữ cho dung dịch ở nhiệt độ tối ưu để hấp thụ hiệu quả và giảm thiểu sự trượt ammonia. Dung môi giàu CO₂ được thu thập từ các thiết bị hấp thụ được chuyển đến thiết bị tái sinh để tái sinh thông qua mạng lưới trao đổi nhiệt giàu-nghèo tích hợp được thiết kế để thu hồi nhiệt hợp lý. Nhiệt được cung cấp cho thiết bị tái sinh thông qua lò đun lại nằm ở đáy cột. Nhiệt độ tăng sẽ giải phóng CO₂ dưới dạng khí và tái tạo dung môi hỗn hợp muối để đưa trở lại thiết bị hấp thụ 1 và thiết bị hấp thụ 2. CO₂ được giải phóng ở áp suất cao từ 10 bar - 20 bar(a) từ cột tái sinh, giúp giảm các yêu cầu về công suất nén CO₂ ở hạ nguồn. Dung môi muối hỗn hợp nghèo CO₂ được rút ra từ giai đoạn giữa phía dưới của cột và đưa trở lại thiết bị hấp thụ 1 để thực hiện loại bỏ CO₂ số lượng lớn. Gần đáy của thiết bị tái sinh, nơi có nhiệt độ cao hơn, ammonia khi bay hơi đã tạo ra dung môi nghèo có tỷ lệ ammonia/kali thấp, nên dung môi này được đưa trở lại thiết bị hấp thụ 2, nơi nó thực hiện loại bỏ CO₂ và giảm tổn thất ammonia.

* Thiết bị tiếp xúc tạo bọt tái sinh (REGENERATIVE FROTH CONTACTOR)

Baker Hughes đã mua lại công ty khởi nghiệp Industrial Climate Solutions-ICS (Canada) nhằm tăng cường hơn nữa sự phát triển công nghệ kỹ thuật thông qua gia tăng quá trình. Công nghệ do ICS cung cấp là thiết bị tiếp xúc tạo bọt tái sinh (Regenerative Froth Contactor-RFC) được trang bị đóng gói màng chắn hình dạng sóng, gấp nếp (Corrugated Screen Packing-CSP). RFC hoạt động ở dòng đồng thời theo chế độ xung được tạo ra bởi các pha khí và lỏng chảy qua thiết bị đóng gói CSP là một thiết bị tĩnh. RFC giúp gia tăng bề mặt truyền khối hiệu quả giúp giảm thể tích đóng gói cần thiết, trong phạm vi giá trị giảm áp suất cho phép đối với quá trình. ICS hiện đang tiến hành triển khai các ứng dụng thu hồi carbon sau đốt cháy trong danh mục của Baker Hughes.

Lợi ích: Tốc độ truyền khối cao hơn; giảm thiểu đáng kể chiều cao của cột tháp hấp thụ; diện tích mặt cắt ngang và dấu chân của cột tháp hấp thụ đáng kể; khả năng chống bám bẩn và lắng đọng muối; hạn chế ảnh hưởng của độ nhớt cao đến tốc độ truyền khối (mass transfer rate).

Mô tả công nghệ: Công cụ tiếp xúc tạo bọt tái sinh (Regenerative Froth Contactor-RFC) là một công nghệ ban đầu được phát triển như một bộ lọc hóa học sinh học trong quá trình thu hồi và lưu trữ carbon do Công ty ICS cung cấp là hệ thống tiếp điểm đồng thời hấp thụ khí/lỏng cải tiến được trang bị đóng gói màn chắn dạng sóng (CSP), giúp đem lại kỳ vọng giảm thiểu kích thước thiết bị so với các thiết bị hấp thụ thông thường. Bộ hấp thụ RFC đại diện cho một công nghệ tiên tiến do đây là thiết bị tĩnh, không có bộ phận chuyển động và hoạt động theo cấu hình “dòng chảy đồng thời” khí-chất lỏng đi xuống, với điều kiện thủy động học ở chế độ xung. Trong khi các chất hấp thụ thông thường hoạt động với một màng chất lỏng mỏng bao phủ chính lớp đệm, thì CSP được làm bằng các màn hình chắn khá phức tạp, giúp tối đa hóa hiệu ứng xung dung môi đồng thời giảm thiểu vật liệu đóng gói bằng kim loại; bằng cách tạo ra RFC hoạt động trong điều kiện tạo bọt trong dòng chảy hai pha, màng khuếch tán trên bề mặt đóng gói truyền thống được thay thế bằng hàng triệu bong bóng và giọt nước trong thể tích của tháp. Những bong bóng này được tạo ra khi các dải bọt xẹp xuống và được tái sinh. Các pha lỏng và khí đồng thời đi vào tháp từ đỉnh cột tháp, chảy qua thiết bị hấp thụ ở chế độ xung và được tách ra ở đáy cột tháp. Dòng xung không bị áp đặt bởi sự kích thích cơ học mà được thiết lập như một hiện tượng đa pha thủy động lực học thuần túy tùy thuộc vào tốc độ dòng pha và thiết kế CSP. Khí đi qua nhiều vùng bọt dọc theo thiết bị hấp thụ và các thành phần khí được hấp thụ vào dung môi.

Trong ứng dụng thu hồi carbon, CO₂ sẽ được chuyển từ khí sang pha lỏng ở dạng bọt hiện diện trong toàn bộ thể tích của cột tháp. Thiết kế bộ hấp thụ/lò phản ứng RFC cho phép hệ thống đáp ứng được tốc độ dòng khí cao và tỷ lệ lỏng/khí ở áp suất ngược chấp nhận được và không gặp phải tình trạng ngập trong cột tháp. Hệ thống RFC cũng có thể được sử dụng trong các quá trình có dung môi kết tủa hoặc hàm lượng chất rắn bị cuốn theo cao, dẫn đến công cụ tiếp xúc ba pha. Hiện có một số lỗi từ tối thiểu đến không hoặc hình phạt giảm áp suất bổ sung đối với công nghệ RFC, ngay cả dưới tải lượng hạt cao và độ nhớt cao. Dựa trên các đặc tính vật lý của hệ thống khí/chất lỏng đã chọn (ví dụ như độ nhớt, sự hiện diện của kết tủa rắn), hình dạng của lớp đệm CSP có thể được chọn để tạo bọt thô hơn/mỏng hơn. Hiện các ứng dụng của công nghệ RFC có thể được sử dụng trên nhiều nền tảng thu giữ carbon khác nhau, từ xử lý khí tự nhiên, thu giữ sau đốt cháy và kiểm soát ô nhiễm không khí, ví dụ như quản lý chất lượng không khí trong nhà, thu giữ không khí trực tiếp DAC.

Link nguồn:

//www.globalccsinstitute.com/wp-content/uploads/2024/08/Report-CCS-Technology-Compendium-2024-1.pdf

Tuấn Hùng

Global CCS Institute