Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Người Mỹ sẽ viết lại nền kinh tế? (Bài 2)

18:30 | 08/09/2021

473 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Mấy thập kỷ qua, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa chưa bao giờ được vận hành đúng với bản chất thật của nó.
Nền kinh tế Mỹ sẽ thay đổi?
Nền kinh tế Mỹ sẽ thay đổi?

Tôi luôn giữ cho mình một quan điểm riêng về hiện tượng được xem khó lý giải: Vì sao một Joe Biden có vẻ già nua, giáo điều, lọt thỏm dưới tiếng tăm lẫy lừng của Donald Trump lại có thể chiến thắng vang dội để trở thành Tổng thống Mỹ!? Liệu mấy trăm triệu cử tri Mỹ đã chọn sai người, hay thế lực nào đó buộc ông Trump phải rời Nhà trắng trong bối cảnh nước Mỹ dường như cần một lãnh đạo mạnh mẽ quyết đoán trước quyền lực ngày càng tăng của Trung Quốc?"

Tôi tin rằng người Mỹ, nước Mỹ, giới chủ Mỹ - họ muốn thay đổi. Ông Trump không hề tồi nếu không muốn nói là rất giỏi, nhưng không còn phù hợp cho mục tiêu chữa lành nội thương trước khi nghĩ đến việc bá chủ thế giới. “Nước Mỹ trở lại” xem chừng dễ chấp nhận hơn “Nước Mỹ trên hết”.

Chủ nhân giải Nobel kinh tế 2001, chuyên gia kinh tế người Mỹ Joseph Stiglitz tin giờ là thời điểm phù hợp để viết lại nền kinh tế Mỹ, ông lập luận rằng “chúng ta không nên để một cuộc khủng hoảng trôi qua lãng phí”...

Các đề xuất của Joseph Stiglitz giúp một nước Mỹ hướng nội nhiều hơn là dàn trải lực lượng ra toàn cầu. Điều này khá tương đồng với quan điểm điều hành đất nước của Tổng thống Biden và đảng Dân chủ.

Đầu tiên, thiết chế thị trường của nền kinh tế Mỹ và một phần toàn cầu bị bóp méo bởi các đại doanh nghiệp. Các BigTech như Facebook, Google, Amazon… đã phá tan các quy luật “cung cầu” “cạnh tranh”, “giá cả” “giá trị” đóng vai trò là nền tảng của kinh tế thị trường - niềm tự hào của các quốc gia tư bản.

Mấy thập kỷ qua, kinh tế thị trường chưa bao giờ được vận hành đúng với bản chất thật của nó. Sự phát triển là không đồng đều, một số ít trở nên quá mạnh, đa số không có cơ hội cạnh tranh sòng phẳng, dẫn đến bất bình đẳng thu nhập ngày bị khoét sâu.

Hàng nghìn cuộc xung đột thương mại lớn nhỏ, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) hoàn toàn bất lực trước chiến tranh thương mại, công nghệ Trung - Mỹ. Những cuộc khủng hoảng thứ cấp liên tục xảy ra như tình trạng thiếu chip, chất bán dẫn, tắc nghẽn logictics toàn cầu… càng rõ rệt khi dịch bệnh COVID-19 xảy ra.

Ở cấp độ vĩ mô, hơn 30 năm nay không xuất hiện nền kinh tế nào được xem là bền vững, cũng không một “tân cường quốc” nào ra đời. Trong khi tài sản của Jezz Bezos, Mark Zuckerberg, Elon Musk, Larry Page, Sergey Brin, Bernard Arnault, Bill Gates liên tục phá đỉnh, thay nhau trong top 10 người giàu nhất hành tinh.

Nội các Mỹ sẽ làm gì để tăng quyền lực nhà nước trong thị trường?
Nội các Mỹ sẽ làm gì để tăng quyền lực nhà nước trong thị trường?

Nhiều đời Tổng thống Mỹ đã dung túng cho độc quyền trong lĩnh vực công nghệ, tạo ra những “âm binh” không thể điều khiển nổi. Dĩ nhiên, độc quyền thì không thể có cạnh tranh, triệt tiêu sáng tạo và phát triển. Thực trạng này là phổ quát.

Bởi vậy, ông Stiglitz cũng cho rằng đang có một sự đồng thuận ngày càng lớn ở Mỹ về sự cần thiết phải thay đổi những đạo luật lỗi thời đã tồn tại suốt 125 năm và giải quyết vấn đề sức mạnh thị trường quá lớn trên khắp nước Mỹ.

Việc này cũng đang xảy ra tại Trung Quốc, các công ty internet tiêu dùng khổng lồ bị “chặt tay chặt chân” vì cái tội ngày càng thu được nhiều lợi nhuận trong khi không có nhiều ý nghĩa giúp cho nền kinh tế trở nên giàu chất xám hơn, sáng tạo nhiều hơn.

Song trùng với dịch bệnh và khủng hoảng toàn diện, nội bộ các quốc gia tư bản rục rịch thay đổi cấu trúc hoạt động. Các tập đoàn khổng lồ không được dùng như là chỗ dựa của quyền lực chính trị. Ngược lại, quyền lực nhà nước buộc quyền lực doanh nghiệp phải tuân phục.

Đây là sự thay đổi rất đáng chú ý, dường như chưa từng xảy ra trong suốt quá trình tồn tại của tư bản chủ nghĩa. Dường như “chủ nghĩa tư bản xã hội” kiểu mới bắt đầu thành hình?

Đặc trưng của các nền kinh tế tư bản là sở hữu tư nhân chiếm đại đa số, nhà nước không can thiệp sâu và cụ thể vào thị trường. Nhưng hiện nay, Chính phủ Mỹ có xu hướng lấy lại quyền lực từ thị trường, bắt đầu kiểm soát các doanh nghiệp lớn.

Bản thân Joseph Stiglitz cho rằng, tăng cường giám sát và tăng thuế sẽ không khiến phương Tây giảm sức cạnh tranh trước các cường quốc mới nổi và Trung Quốc.

Theo Diễn đàn Doanh nghiệp

Kịch bản nào cho kinh tế thế giới năm 2022?Kịch bản nào cho kinh tế thế giới năm 2022?
Tác động kinh tế của làn sóng COVID thứ 4: (Kỳ 6) Tìm hiệu suất cao hơn trong tăng trưởngTác động kinh tế của làn sóng COVID thứ 4: (Kỳ 6) Tìm hiệu suất cao hơn trong tăng trưởng
Tác động kinh tế của làn sóng COVID thứ 4: (Kỳ 4) Viễn cảnh trước mắt và trong trung hạnTác động kinh tế của làn sóng COVID thứ 4: (Kỳ 4) Viễn cảnh trước mắt và trong trung hạn
Từ tháng 1/2022, lương hưu, trợ cấp chỉ tăng 11%Từ tháng 1/2022, lương hưu, trợ cấp chỉ tăng 11%
Hai kịch bản tăng trưởng kinh tế nửa cuối năm 2021Hai kịch bản tăng trưởng kinh tế nửa cuối năm 2021
Giải mã suy giảm kinh tế Trung QuốcGiải mã suy giảm kinh tế Trung Quốc

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 86,000 ▲2000K 88,000 ▲2000K
AVPL/SJC HCM 86,000 ▲2000K 88,000 ▲2000K
AVPL/SJC ĐN 86,000 ▲2000K 88,000 ▲2000K
Nguyên liệu 9999 - HN 85,900 ▲1300K 86,300 ▲1300K
Nguyên liệu 999 - HN 85,800 ▲1300K 86,200 ▲1300K
AVPL/SJC Cần Thơ 86,000 ▲2000K 88,000 ▲2000K
Cập nhật: 21/10/2024 20:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 85.800 ▲1100K 86.750 ▲1050K
TPHCM - SJC 86.000 ▲2000K 88.000 ▲2000K
Hà Nội - PNJ 85.800 ▲1100K 86.750 ▲1050K
Hà Nội - SJC 86.000 ▲2000K 88.000 ▲2000K
Đà Nẵng - PNJ 85.800 ▲1100K 86.750 ▲1050K
Đà Nẵng - SJC 86.000 ▲2000K 88.000 ▲2000K
Miền Tây - PNJ 85.800 ▲1100K 86.750 ▲1050K
Miền Tây - SJC 86.000 ▲2000K 88.000 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - PNJ 85.800 ▲1100K 86.750 ▲1050K
Giá vàng nữ trang - SJC 86.000 ▲2000K 88.000 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 85.800 ▲1100K
Giá vàng nữ trang - SJC 86.000 ▲2000K 88.000 ▲2000K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 85.800 ▲1100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 85.600 ▲1000K 86.400 ▲1000K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 85.510 ▲990K 86.310 ▲990K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 84.640 ▲990K 85.640 ▲990K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 78.740 ▲910K 79.240 ▲910K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 63.550 ▲750K 64.950 ▲750K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 57.500 ▲680K 58.900 ▲680K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 54.910 ▲650K 56.310 ▲650K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 51.450 ▲610K 52.850 ▲610K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 49.290 ▲580K 50.690 ▲580K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 34.690 ▲410K 36.090 ▲410K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 31.150 ▲370K 32.550 ▲370K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 27.260 ▲330K 28.660 ▲330K
Cập nhật: 21/10/2024 20:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,490 ▲100K 8,670 ▲100K
Trang sức 99.9 8,480 ▲100K 8,660 ▲100K
NL 99.99 8,550 ▲100K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,510 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,580 ▲100K 8,680 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,580 ▲100K 8,680 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,580 ▲100K 8,680 ▲100K
Miếng SJC Thái Bình 8,600 ▲200K 8,800 ▲200K
Miếng SJC Nghệ An 8,600 ▲200K 8,800 ▲200K
Miếng SJC Hà Nội 8,600 ▲200K 8,800 ▲200K
Cập nhật: 21/10/2024 20:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,449.59 16,615.75 17,148.95
CAD 17,806.49 17,986.36 18,563.55
CHF 28,439.35 28,726.62 29,648.47
CNY 3,459.47 3,494.41 3,606.55
DKK - 3,606.03 3,744.15
EUR 26,694.29 26,963.93 28,158.23
GBP 32,055.29 32,379.08 33,418.15
HKD 3,166.60 3,198.58 3,301.23
INR - 299.51 311.48
JPY 162.88 164.53 172.35
KRW 15.86 17.62 19.12
KWD - 82,232.66 85,520.99
MYR - 5,808.00 5,934.73
NOK - 2,257.12 2,352.97
RUB - 250.04 276.80
SAR - 6,705.27 6,973.40
SEK - 2,345.18 2,444.77
SGD 18,743.68 18,933.01 19,540.58
THB 669.03 743.37 771.84
USD 25,040.00 25,070.00 25,430.00
Cập nhật: 21/10/2024 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,040.00 25,060.00 25,400.00
EUR 26,843.00 26,951.00 28,078.00
GBP 32,264.00 32,394.00 33,392.00
HKD 3,181.00 3,194.00 3,300.00
CHF 28,596.00 28,711.00 29,602.00
JPY 164.74 165.40 172.90
AUD 16,558.00 16,624.00 17,136.00
SGD 18,868.00 18,944.00 19,496.00
THB 735.00 738.00 771.00
CAD 17,922.00 17,994.00 18,531.00
NZD 15,040.00 15,549.00
KRW 17.58 19.35
Cập nhật: 21/10/2024 20:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25140 25140 25430
AUD 16543 16643 17205
CAD 17942 18042 18593
CHF 28814 28844 29651
CNY 0 3519.8 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3638 0
EUR 26969 27069 27944
GBP 32408 32458 33576
HKD 0 3220 0
JPY 165.48 165.98 172.49
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.059 0
MYR 0 5974 0
NOK 0 2304 0
NZD 0 15100 0
PHP 0 408 0
SEK 0 2395 0
SGD 18872 19002 19723
THB 0 700.9 0
TWD 0 772 0
XAU 8600000 8600000 8800000
XBJ 7900000 7900000 8500000
Cập nhật: 21/10/2024 20:45