Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Kinh doanh sụt lãi 90%, bầu Đức vẫn có quyền vui vì “nhẹ gánh nợ”

14:00 | 31/07/2018

Theo dõi PetroTimes trên
|
Mặc dù nguồn thu từ trái cây tăng mạnh song Hoàng Anh Gia Lai vẫn ghi nhận giảm lãi hơn 90% trong quý II/2018 do sự chùng xuống của mảng cao su và việc duy trì đàn bò nay chỉ để lấy phân bón. Tuy vậy, trong kỳ, áp lực nợ đối với bầu Đức đã giảm.

Công ty Cổ phần Hoàng Anh Gia Lai (HAGL – mã chứng khoán HAG) vừa công bố báo cáo tài chính hợp nhất quý II và 6 tháng đầu năm 2018 cho thấy, mặc dù trong kỳ doanh thu của tập đoàn này vẫn tăng trưởng, song kết quả lợi nhuận lại đi xuống.

Cụ thể, doanh thu thuần quý II của HAGL đạt 1.894 tỷ đồng, tăng 15% so với cùng kỳ 2017. Ông Võ Trường Sơn – Tổng giám đốc HAGL cho biết, mức tăng này chủ yếu dựa vào kết quả khả quan của mảng trái cây.

Trong quý II/2018, doanh thu trái cây tăng 261 tỷ đồng lên 932 tỷ đồng do có thêm nguồn thu từ hoạt động bán trái cây của Công ty TNHH MTV Phát triển Nông nghiệp Đại Thắng, một công ty con được HAGL mua về từ tháng 3/2018.

Bên cạnh đó, tập đoàn của ông Đoàn Nguyên Đức (bầu Đức) còn ghi nhận thêm 356 tỷ đồng doanh bán ớt. Doanh thu bán sản phẩm, hàng hóa tăng 70 tỷ đồng so với cùng kỳ lên 211 tỷ đồng nhờ tận dụng được nguồn thu từ các sản phẩm phụ từ hoạt động chăn nuôi.

kinh doanh sut lai 90 bau duc van co quyen vui vi nhe ganh no
Chỉ trong 1 quý thu hơn 930 tỷ đồng từ bán trái cây, song HAGL vẫn giảm lãi mạnh so với cùng kỳ

Trong khi cây ăn trái bội thu thì các hoạt động kinh doanh khác của HAGL lại trầm xuống. Doanh thu cung cấp dịch vụ cho thuê và dịch vụ khác giảm nhẹ 9 tỷ đồng. Đáng chú ý, doanh thu bán bò giảm tới 214 tỷ đồng so cùng kỳ (mức giảm gần 85%), chỉ còn 38 tỷ đồng trong quý II. Hiện, HAGL cũng không còn ưu tiên nguồn vốn lưu động tài trợ cho ngành bò nữa mà tập trung cho mảng cây ăn trái.

Doanh thu bán mủ cao su sụt giảm mạnh 139 tỷ đồng (gần 90%) so với quý II/2017, chỉ còn vỏn vẹn 16 tỷ đồng. Nguyên nhân chủ yếu do giá cao su giảm mạnh, HAGL chủ trương không bán nhiều cho giá lên.

Với việc hoàn tất chuyển nhượng nhóm công ty mía đường cho Thành Thành Công vào ngày 22/5/2017, trong quý II/2018, HAGL không còn phát sinh doanh thu bán đường.

Việc tập trung phát triển cây ăn trái cũng giúp HAGL giảm đáng kể gíá vốn hàng bán trong kỳ, giảm gần 12% còn 921 tỷ đồng. Lợi nhuận gộp nhờ đó tăng 365 tỷ đồng, tương ứng mức tăng 60% so với cùng kỳ lên 973 tỷ đồng trong quý II/2018.

Trong khi sản xuất kinh doanh trái cây khởi sắc thì tập đoàn của bầu Đức cũng ghi nhận khoản chi phí quản lý doanh nghiệp tăng 140 tỷ đồng (tương ứng tăng tới 65%) do phải trích trước dự phòng một số khoản chi phí liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh.

Giữa lúc doanh thu tài chính giảm mạnh 853 tỷ đồng, chỉ còn 172 tỷ đồng trong quý II (cùng kỳ đã ghi nhận khoản lãi từ thanh lý nhóm công ty mía đường và Công ty CP Cao su Ban Mê) thì chi phí hoạt động tài chính giảm nhẹ 37 tỷ đồng còn 489 tỷ đồng.

Áp lực nợ giảm là một yếu tố “cộng điểm” đối với HAGL trong bối cảnh đến nay tập đoàn này vẫn còn tổng cộng 36.851 tỷ đồng nợ phải trả. Cụ thể, chi phí lãi vay ngân hàng và trái phiếu trong kỳ đã giảm 59 tỷ đồng còn 429 tỷ đồng do dư nợ vay giảm.

Hoạt động khác của HAGL ghi nhận lỗ 134 tỷ đồng trong quý II, tăng lỗ gấp 6 lần cùng kỳ. Qua đó, góp phần dẫn tới tổng lợi nhuận kế toán trước thuế chỉ còn gần 113 tỷ đồng, giảm tới 87% so với cùng kỳ 2017. Lãi sau thuế ghi nhận được chỉ còn hơn 83 tỷ đồng (giảm hơn 90% so với quý II/2017). Trong đó, lợi nhuận sau thuế của công ty mẹ âm gần 14 tỷ đồng.

Luỹ kế 6 tháng đầu năm 2018, công ty bầu Đức có lãi trước thuế 145 tỷ đồng (giảm lãi hơn 83% cùng kỳ và lãi sau thuế 140 tỷ đồng.

Như vậy, với những số liệu đưa ra tại báo cáo tài chính quý II/2018 có thể thấy bầu Đức dường như đã “toàn tâm toàn ý” cho hoạt động sản xuất kinh doanh cây ăn trái. Mặc dù lãi giảm sâu, nhưng mảng này đã cho thấy những dấu hiệu khả quan và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu doanh thu của HAGL.

Trước đó, thông điệp nêu trong báo cáo thường niên 2017 của HAGL, bầu Đức cũng cho biết, khoảng trên 40% diện tích cây ăn trái của tập đoàn này sẽ được thu hoạch vào năm nay. Đồng thời thể hiện tham vọng muốn đưa doanh nghiệp này dẫn đầu châu Á trong mảng trồng và xuất khẩu trái cây.

Theo Dân trí

Bầu Đức “khuấy đảo” thị trường, đại gia Phước Vũ đang trở lại?
Nước rút sau vụ vỡ đập, tiền ồ ạt “đổ” vào cổ phiếu bầu Đức
Vốn hóa công ty bầu Đức “bay” nghìn tỷ đồng sau sự cố vỡ đập thủy điện tại Lào

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 80,000 83,500
AVPL/SJC HCM 80,000 83,500
AVPL/SJC ĐN 80,000 83,500
Nguyên liệu 9999 - HN 81,000 81,900
Nguyên liệu 999 - HN 80,900 81,800
AVPL/SJC Cần Thơ 80,000 83,500
Cập nhật: 18/11/2024 07:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 80.900 82.600
TPHCM - SJC 80.000 83.500
Hà Nội - PNJ 80.900 82.600
Hà Nội - SJC 80.000 83.500
Đà Nẵng - PNJ 80.900 82.600
Đà Nẵng - SJC 80.000 83.500
Miền Tây - PNJ 80.900 82.600
Miền Tây - SJC 80.000 83.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 80.900 82.600
Giá vàng nữ trang - SJC 80.000 83.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 80.900
Giá vàng nữ trang - SJC 80.000 83.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 80.900
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 80.800 81.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 80.720 81.520
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 79.880 80.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 74.350 74.850
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 59.950 61.350
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 54.240 55.640
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 51.790 53.190
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 48.530 49.930
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 46.490 47.890
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 32.700 34.100
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 29.350 30.750
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 25.680 27.080
Cập nhật: 18/11/2024 07:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,020 8,280
Trang sức 99.9 8,010 8,270
NL 99.99 8,045
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,010
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,110 8,290
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,110 8,290
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,110 8,290
Miếng SJC Thái Bình 8,030 8,350
Miếng SJC Nghệ An 8,030 8,350
Miếng SJC Hà Nội 8,030 8,350
Cập nhật: 18/11/2024 07:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,965.78 16,127.05 16,644.42
CAD 17,607.85 17,785.71 18,356.29
CHF 27,830.10 28,111.22 29,013.05
CNY 3,425.24 3,459.84 3,570.83
DKK - 3,521.01 3,655.85
EUR 26,070.92 26,334.26 27,500.42
GBP 31,340.05 31,656.61 32,672.19
HKD 3,180.68 3,212.80 3,315.87
INR - 299.93 311.92
JPY 156.74 158.32 165.85
KRW 15.62 17.36 18.84
KWD - 82,452.28 85,748.60
MYR - 5,601.59 5,723.76
NOK - 2,233.34 2,328.16
RUB - 242.93 268.92
SAR - 6,748.19 6,996.23
SEK - 2,264.05 2,360.17
SGD 18,402.38 18,588.26 19,184.59
THB 642.56 713.95 741.29
USD 25,160.00 25,190.00 25,512.00
Cập nhật: 18/11/2024 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,200.00 25,212.00 25,512.00
EUR 26,197.00 26,302.00 27,381.00
GBP 31,523.00 31,650.00 32,588.00
HKD 3,196.00 3,209.00 3,310.00
CHF 27,965.00 28,077.00 28,907.00
JPY 158.28 158.92 165.62
AUD 16,062.00 16,127.00 16,607.00
SGD 18,516.00 18,590.00 19,093.00
THB 706.00 709.00 739.00
CAD 17,717.00 17,788.00 18,284.00
NZD 14,586.00 15,066.00
KRW 17.30 18.98
Cập nhật: 18/11/2024 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25268 25268 25512
AUD 16072 16172 16735
CAD 17725 17825 18376
CHF 28192 28222 29016
CNY 0 3477.7 0
CZK 0 1028 0
DKK 0 3648 0
EUR 26375 26475 27350
GBP 31631 31681 32784
HKD 0 3240 0
JPY 160.44 160.94 167.45
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.8 0
LAK 0 1.095 0
MYR 0 5952 0
NOK 0 2294 0
NZD 0 14709 0
PHP 0 407 0
SEK 0 2336 0
SGD 18551 18681 19402
THB 0 673.8 0
TWD 0 782 0
XAU 8150000 8150000 8350000
XBJ 7700000 7700000 8300000
Cập nhật: 18/11/2024 07:00