Giải pháp thu hút nguồn lực đầu tư để phát triển giao thông xanh bền vững
Ngày 21/8, Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) tổ chức Tọa đàm "Phát triển giao thông xanh: Thách thức và Giải pháp thu hút nguồn lực đầu tư". Đây là cơ hội cho các bên chia sẻ những khó khăn, thách thức trong quá trình thực hiện Chương trình chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí các-bon, khí mê tan của ngành GTVT.
Phát triển giao thông xanh là nền tảng quan trọng để xây dựng một nền kinh tế xanh
Phát biểu khai mạc tọa đàm, Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thắng cho biết, phát triển kinh tế xanh đã được Ban Chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt Nam từ khoá XI đặt vấn đề chính thức tại Nghị quyết số 24 ngày 13/6/2013 về chủ đề ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ tài nguyên và bảo vệ môi trường. Trong đó, yêu cầu thí điểm phát triển mô hình kinh tế xanh, công nghiệp xanh, nông thôn xanh.
Gần 1 thập kỷ triển khai thực hiện, xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường đã được xác định trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, tại Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và tiếp tục được khẳng định tại Quyết định 81 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khoá XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Trong đó yêu cầu xây dựng cơ chế chính sách, huy động nguồn lực, đổi mới công cụ kinh tế, tiếp cận thị trường về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thắng phát biểu tại toạ đàm. |
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng nhấn mạnh, phát triển giao thông xanh là nền tảng quan trọng để xây dựng một nền kinh tế xanh. Đại hội Đảng lần thứ XI, XII và XIII đã xác định xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội, ưu tiên một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông thích ứng với biến đổi khi hậu là 1 trong 3 đột phá chiến lược để phát triển kinh tế - xã hội.
Thực hiện các cam kết của Việt Nam tại COP 26, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 876 ngày 2/7/2022 phê duyệt chương trình hành động về chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí cacbon và khí mê tan của ngành GTVT, với mục tiêu phát triển hệ thống GTVT xanh, nhằm thực hiện mục tiêu đưa phát thải ròng khí nhà kính về 0 vào năm 2050.
Chương trình hành động đã đưa ra các giải pháp cụ thể cho 5 chuyên ngành GTVT quốc gia và giao thông đô thị bao gồm: phát triển hệ thống đường sắt đô thị, đường sắt tốc độ cao, đường sắt quốc gia điện khí hoá, phát triển cảng xanh và lộ trình chuyển đổi phương tiện sang sử dụng điện và năng lượng xanh.
Đồng thời, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ cũng khẳng định hỗ trợ của quốc tế là điều kiện quan trọng, tiên quyết để Việt Nam đạt được những mục tiêu đặt ra.
Sau 2 năm thực hiện Quyết định 876 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giao thông Vận tải và các bộ, ngành địa phương đã tích cực triển khai các giải pháp được giao và đã đạt được một số kết quả ban đầu. Đồng thời cũng còn nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là các giải pháp thu hút nguồn lực đầu tư chuyển đổi cơ sở hạ tầng xanh, chuyển đổi phương tiện xanh.
GS.TS Lê Anh Tuấn, Chủ tịch Hội đồng ĐH Bách khoa Hà Nội chia sẻ tại tọa đàm. |
3 kịch bản cùng các giải pháp để phát thải ròng về "0" tại Việt Nam
Chia sẻ tại toạ đàm, GS.TS Lê Anh Tuấn - Chủ tịch Hội đồng ĐH Bách khoa Hà Nội cho biết, theo số liệu năm 2021, tiêu thụ năng lượng trong ngành GTVT đứng vị trí thứ 2 (16,5%), chỉ xếp sau công nghiệp (51,4%). Hơn 95% nhu cầu năng lượng của ngành GTVT phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch.
Năm 2020, lượng khí nhà kính (KNK) phát thải từ hệ thống năng lượng đạt xấp xỉ 300 Mt CO2eq, riêng GTVT chiếm 18% toàn ngành năng lượng, tương đương 45,5 Mt CO2eq.
Mục tiêu đặt ra là xây dựng kịch bản giảm nhẹ phát thải KNK trong GTVT đến năm 2050 theo hướng phát thải ròng về 0, áp dụng cho 5 lĩnh vực đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, đường biển ven bờ và hàng không.
Có 3 kịch bản được đưa ra, gồm kịch bản BAU (phát triển GTVT theo hướng phát thải thông thường), kịch bản quốc gia tự thực hiện (kịch bản Năng lượng tái tao (NLTN) - giảm phát thải bằng nguồn lực trong nước) và kịch bản hướng tới phát thải ròng bằng 0 (kịch bản PTR0 - có sự hỗ trợ của quốc tế).
Các kịch bản này sử dụng 4 giải pháp chính gồm: sử dụng năng lượng hiệu quả, chuyển đổi phương tiện cá nhân sang công cộng, chuyển đổi vận tải hàng hóa từ đường bộ sang đường thủy, chuyển đổi nhiên liệu/năng lượng.
Dự báo kết quả giai đoạn 2025 - 2050, về luân chuyển hành khách, đường bộ luôn chiếm thị phần lớn nhất (trên 85%) và không khác biệt đáng kể giữa 3 kịch bản. Với kịch bản NLTN và PTR0, hàng không chiếm thị phần cao thứ hai, nhưng có xu hướng giảm dần và nhường thị phần cho vận tải đường sắt.
Về luân chuyển hàng hóa, đường bộ, đường ven biển và đường thủy nội địa là các lĩnh vực chiếm thị phần lớn nhất trong cả 3 kịch bản. Tuy nhiên với kịch bản PTR0, có sự chuyển dịch giảm thị phần đường bộ và tăng rõ rệt thị phần đường sắt.
Đến năm 2050, nhu cầu năng lượng của 2 kịch bản giảm phát thải là năng lượng tái tạo và PTR0 sẽ giảm so với kịch bản BAU. Nhiên liệu hóa thạch chiếm tỷ trọng 91,7% trong BAU, nhưng giảm còn 60,2% trong NLTN và còn 17,2% với PTR0.
Về các loại năng lượng xanh (NLX), điện được sử dụng trong lĩnh vực đường bộ theo cả 3 kịch bản từ năm cơ sở và là NLX duy nhất được sử dụng trong kịch bản BAU.
Với kịch bản NLTN và PTR0, từ năm 2035 dự kiến có thêm nhiều loại NLX như methanol, hydrogen, SAF và amoniac.
Về tổng lượng phát thải KNK, nếu theo kịch bản BAU, lượng KNK gia tăng trong suốt giai đoạn 2025 - 2050, tốc độ trung bình 4,7%/năm (không có đỉnh phát thải) và dự báo đạt khoảng 273,21 triệu tấn CO2eq vào năm 2050.
Kịch bản NLTN có thể hạ thấp lượng phát thải so với BAU nhưng phát thải KNK vẫn tăng qua các năm. Đến năm 2050, dự báo phát thải khoảng 171,65 triệu tấn CO2eq, giảm 37% so với BAU (không có đỉnh phát thải).
Với kịch bản PTR0, phát thải KNK trong năm 2050 chỉ còn khoảng 30,34 triệu tấn CO2eq, bằng 11,1% so với BAU - tỉ lệ này cơ bản tương đồng với kịch bản đã được xây dựng trong Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050.
Chi phí đầu tư giai đoạn 2025 - 2050 cho kịch bản NLTN khoảng 1.176,17 tỷ USD. Kịch bản PTR0 có chi phí 1.225,37 tỷ USD, cao hơn NLTN nhưng cơ bản sẽ hướng tới được mục tiêu phát thải về “0” vào 2050.
Theo GS.TS Lê Anh Tuấn, để thực hiện các kịch bản này, cần có công tác quản lý nhà nước, phối hợp liên ngành; cơ chế huy động nguồn lực và phân bổ vốn đầu tư; phát triển khoa học công nghệ, kịp thời đáp ứng chuyển đổi xanh trong lĩnh vực giao thông vận tải; đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với chuyển đổi năng lượng xanh trong giao thông vận tải; quan hệ hợp tác quốc tế; cơ chế giám sát thực hiện; cũng như truyền thông nâng cao nhận thức và thu hút sự tham gia của cộng đồng.
Các khách mời trao đổi, chia sẻ tại tọa đàm |
Ông Fabian Hartjes, Bí thư thứ hai - Phụ trách về kinh tế và chính sách khí hậu, thừa uỷ quyền của Đại sứ đặc mệnh toàn quyền CHLB Đức tại Việt Nam chia sẻ mục tiêu chung với Việt Nam để đạt được phát thải ròng về “0”. Đồng thời cam kết lâu dài trong việc phối hợp, hỗ trợ giảm phát thải carbon ngành GTVT.
Chính phủ Đức đã hỗ trợ cho sáng kiến như cam kết, ủng hộ của chính phủ, nhân dân Đức với sự phát triển bền vững, giao thông xanh của Việt Nam.
Để đạt được, không chỉ ngành giao thông mà còn cần sự phối hợp của các bộ ngành liên quan. Để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0, phát triển bền vững hơn, trong chủ đề hôm nay sẽ trao đổi thêm một số vấn đề nữa.
Bên cạnh đó, ngành năng lượng, công nghiệp chế tạo cũng cần đồng hành cùng giao thông. Chính phủ Đức cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào 2045. Đây cũng đòi hỏi phải đầu tư mạnh mẽ vào hệ thống hạ tầng, đưa vào vận hành hệ thống phương tiện giao thông sử dụng điện. Điều này sẽ thu hút sự đầu tư không chỉ của chính phủ mà còn đầu tư vào phát triển công nghệ xanh và vấn đề môi trường.
Các giải pháp đề xuất hôm nay không chỉ mang tính toàn cầu mà còn được chỉnh sửa để phù hợp với các điều kiện của Việt Nam.
Ông Ron H. Slangen, Phó Giám đốc quốc gia ADB tại Việt Nam. |
Tại toạ đàm, Ông Ron H. Slangen - Phó Giám đốc quốc gia ADB tại Việt Nam chia sẻ, lĩnh vực GTVT tại Việt Nam tuy phát triển song vẫn còn khoảng cách so với các quốc gia phát triển trên thế giới. Vậy nên đầu tư vào các hoạt động GTVT là cần thiết.
Vận hành hiệu quả của hệ thống giao thông cần lưu tâm, trong đó yêu cầu đầu tư vào xe điện, hệ thống theo dõi điều khiển giao thông, theo dõi qua vệ tinh và cải thiện chính sách.
ADB cam kết mạnh mẽ đầu tư của ADB trong lĩnh vực này bởi kể từ khi thành lập, các đầu tư của ADB vào lĩnh vực GTVT chiếm khoảng 25%. Việc hỗ trợ của ADB vẫn tiếp tục duy trì trong đó có cả khu vực đầu tư công và tư trong lĩnh vực công nghệ xanh.
Đòi hỏi đầu tư lĩnh vực giao thông xanh không chỉ ở ngành giao thông mà còn cần ở cả các ngành khác. Từ 2017 - 2030, mục tiêu ADB cam kết phát triển hạ tầng giao thông mạnh mẽ các cam kết của ADB tập trung vào phát triển chiến lược của các quốc gia trong ngành giao thông như chính sách…
Phát triển ngành giao thông là vô cùng quan trọng để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0. Chúng tôi sẽ đồng hành cùng Việt Nam để đạt được mục tiêu.
Ưu tiên các phương tiện phát thải thấp hoặc không phát thải là tập trung của ADB. ADB trên tinh thần đó cũng đã đầu tư rất mạnh mẽ cho GTVT đường sắt và hàng không. ADB hiện đang đầu tư hơn 70.000 trang thiết bị vận tải chạy điện cho đường bộ. Đại diện ADB tin rằng thị trường xe điện các quốc gia trong đó có Việt Nam sẽ tăng mạnh mẽ những năm tới.
Nguyên Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Ngọc Đông chia sẻ tại tọa đàm. |
Nguyên Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Ngọc Đông cho biết, nhu cầu phát triển giao thông rất lớn, trong đó hạ tầng mới đề cập trạm sạc, còn hạ tầng bến cảng, sân bay, đường sắt chưa nêu.
Việc huy động nguồn lực để đưa về Netzero như cam kết là thách thức rất lớn. Như vậy có nên xem xét lại chủ trương, định hướng về thu hút nguồn lực không, hệ thống luật pháp cần điều chỉnh thế nào để thu hút nguồn lực...
Một nguồn lực rất lớn là vốn mồi của nhà nước cho đầu tư phát triển hạ tầng. Nếu chúng ta không đầu tư cho đường sắt, chúng ta không thể chuyển được hàng hoá từ đường bộ sang.
Ông Nguyễn Ngọc Đông cho rằng, ngoài nguồn lực trong nước cần khai thông để huy động nguồn lực quốc tế. Các đối tác đã có cam kết, sẵn sàng nhưng chúng ta phải tiếp cận, sử dụng hiệu quả trên cơ sở đáp ứng điều kiện nhất định. Bên cạnh đó, cần làm sao rà soát quy định pháp luật, làm sao để thu hút tư nhân tham gia vào thế mạnh của họ như chuyển đổi phương tiện, năng lượng… kết hợp các nguồn lực mới đạt được mục tiêu.
N.H
-
Bản tin Năng lượng xanh: Lộ trình của Châu Phi hướng tới một hệ thống năng lượng lớn hơn và xanh hơn
-
Canada công bố nguyên tắc phân loại dự án năng lượng xanh
-
Kế hoạch năng lượng sạch của tân Tổng thống Mexico bị coi là "viển vông"
-
Giải pháp bền vững cho chuyển dịch năng lượng xanh
-
[PetroTimesTV] Petrovietnam định hướng phát triển Amoniac xanh - công nghệ nhiên liệu xanh bền vững
-
Nếu đất khỏe, con người sẽ khỏe, thế hệ sau sẽ khỏe
-
Tìm giải pháp thúc đẩy phát triển ngành năng lượng Việt Nam
-
Khởi tạo nền kinh tế mới: Cách mạng trong chuyển đổi số - chuyển đổi xanh và vai trò tiên phong của doanh nghiệp
-
Cải cách Thuế - Hải quan vì sự phát triển bền vững của doanh nghiệp
-
Đề xuất các giải pháp thu hồi tài sản tham nhũng trên địa bàn TP HCM