Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Chỉ số PMI tiếp tục dưới ngưỡng 50 điểm tháng thứ 4 liên tiếp

16:41 | 03/07/2023

Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Chỉ số PMI ngành sản xuất Việt Nam trong tháng 6 vẫn nằm dưới ngưỡng 50 điểm tháng thứ tư liên tiếp, cho thấy sức khỏe ngành sản xuất tiếp tục suy giảm.

Sáng 3/7, S&P Global công bố báo cáo Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam tháng 6/2023.

Báo cáo của S&P Global chỉ rõ, các nhà sản xuất ở Việt Nam tiếp tục gặp khó khăn khi nhu cầu thị trường yếu kém vào thời điểm gần hết quý II. Sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục giảm, và việc giảm sản lượng đã một phần phản ánh tình trạng thiếu điện diễn ra do đợt nắng nóng vừa qua.

Chỉ số PMI tiếp tục dưới ngưỡng 50 điểm tháng thứ 4 liên tiếp
Số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục giảm trong bối cảnh nhu cầu yếu

Môi trường nhu cầu yếu đã khiến các công ty phải giảm số lượng nhân viên và hoạt động mua hàng, trong khi giá cả cũng giảm. Việc không phải chịu áp lực về khối lượng công việc đã giúp thời gian giao hàng của nhà cung cấp rút ngắn với mức độ lớn thứ nhì từng được ghi nhận (kể từ tháng 3/2011).

Chỉ số PMI ngành sản xuất Việt Nam trong tháng 6 vẫn nằm dưới ngưỡng 50 điểm tháng thứ tư liên tiếp, cho thấy sức khỏe ngành sản xuất tiếp tục suy giảm. Với kết quả 46,2, tăng so với mức 45,3 điểm của tháng 5, chỉ số lần này cho thấy các điều kiện kinh doanh tiếp tục suy giảm mạnh.

Tình trạng nhu cầu yếu kém được nhắc đến nhiều trong kỳ khảo sát mới nhất, và các điều kiện thị trường suy giảm là nguyên nhân chính dẫn đến giảm số lượng đơn đặt hàng mới. Tổng số lượng đơn đặt hàng mới giảm tháng thứ tư liên tiếp, và tốc độ giảm là mạnh nhưng vẫn chậm hơn so với tháng 5. Số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới giảm nhanh hơn tổng số lượng đơn đặt hàng mới khi nhu cầu trên thị trường quốc tế giảm.

Sự yếu kém của nhu cầu đã khiến sản lượng sản xuất tiếp tục giảm, trong khi cũng có một số báo cáo cho thấy tình trạng thiếu điện do đợt nắng nóng ở Việt Nam vừa qua đã kìm hãm tăng trưởng. Sản lượng giảm ở tất cả các lĩnh vực hàng hóa tiêu dùng, hàng hóa trung gian và hàng hóa đầu tư cơ bản, và tốc độ giảm chung vẫn mạnh.

Số lượng đơn đặt hàng mới giảm khiến lượng công việc tồn đọng tiếp tục giảm, trong khi các nhà sản xuất phản ứng với tình trạng giảm lượng công việc bằng cách giảm số lượng việc làm và hoạt động mua hàng.

Việc làm đã giảm tháng thứ tư liên tiếp, và tốc độ giảm là đáng kể và là mạnh hơn so với tháng 5.

Tương tự, hoạt động mua hàng đã giảm tháng thứ tư liên tiếp, mặc dù mức giảm là nhẹ vào cuối quý II. Hoạt động mua hàng hóa đầu vào và số lượng đơn đặt hàng mới giảm đã khiến tồn kho hàng mua giảm.

Tồn kho hàng thành phẩm cũng giảm khi sản lượng tăng chậm lại, và đây là lần giảm thứ hai liên tiếp. Môi trường nhu cầu yếu cũng đã làm giảm áp lực lên giá cả trong tháng 6. Trên thực tế, chi phí đầu vào đã giảm tháng thứ hai liên tiếp, và tốc độ giảm là mạnh và nhanh nhất kể từ tháng 4/2020. Giá cả đầu vào giảm giúp các công ty dễ dàng hơn trong việc giảm giá bán hàng để kích thích nhu cầu. Giá cả đầu ra đã giảm tháng thứ ba liên tiếp, và lần giảm giá này là đáng kể nhất trong hơn ba năm qua.

Cùng với tình trạng giảm áp lực lên giá cả, tình trạng thiếu nhu cầu trong ngành sản xuất cũng tạo ra năng lực dự phòng trong chuỗi cung ứng. Thời gian giao hàng của nhà cung cấp được rút ngắn với mức độ cao nhất trong gần 12 năm, và mức độ rút ngắn là cao thứ nhì kể từ khi khảo sát bắt đầu vào tháng 3/2011.

Những khó khăn cho các công ty thể hiện ở một loạt chỉ số của kỳ khảo sát tháng 6 cho thấy niềm tin kinh doanh tương đối thấp, mặc dù đã tăng so với mức thấp của 6 tháng trong tháng 5. Tuy nhiên, các nhà sản xuất vẫn lạc quan rằng sản lượng sẽ tăng trong năm tới với hy vọng nhu cầu thị trường và khả năng tìm kiếm khách hàng mới sẽ phục hồi.

Vì sao chỉ số PMI lại giảm?

Vì sao chỉ số PMI lại giảm?

Báo cáo mới nhất của S&P Global cho thấy Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (PMI, Purchasing Managers' Index) ngành sản xuất của Việt Nam trong tháng 4/2023 chỉ đạt 46,7 điểm, giảm so với mức 47,7 điểm trong tháng 3.

P.V (t/h)

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 80,000 83,500
AVPL/SJC HCM 80,000 83,500
AVPL/SJC ĐN 80,000 83,500
Nguyên liệu 9999 - HN 81,000 81,900
Nguyên liệu 999 - HN 80,900 81,800
AVPL/SJC Cần Thơ 80,000 83,500
Cập nhật: 17/11/2024 09:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 80.900 82.600
TPHCM - SJC 80.000 83.500
Hà Nội - PNJ 80.900 82.600
Hà Nội - SJC 80.000 83.500
Đà Nẵng - PNJ 80.900 82.600
Đà Nẵng - SJC 80.000 83.500
Miền Tây - PNJ 80.900 82.600
Miền Tây - SJC 80.000 83.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 80.900 82.600
Giá vàng nữ trang - SJC 80.000 83.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 80.900
Giá vàng nữ trang - SJC 80.000 83.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 80.900
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 80.800 81.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 80.720 81.520
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 79.880 80.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 74.350 74.850
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 59.950 61.350
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 54.240 55.640
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 51.790 53.190
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 48.530 49.930
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 46.490 47.890
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 32.700 34.100
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 29.350 30.750
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 25.680 27.080
Cập nhật: 17/11/2024 09:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,020 8,280
Trang sức 99.9 8,010 8,270
NL 99.99 8,045
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,010
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,110 8,290
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,110 8,290
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,110 8,290
Miếng SJC Thái Bình 8,030 8,350
Miếng SJC Nghệ An 8,030 8,350
Miếng SJC Hà Nội 8,030 8,350
Cập nhật: 17/11/2024 09:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 15,965.78 16,127.05 16,644.42
CAD 17,607.85 17,785.71 18,356.29
CHF 27,830.10 28,111.22 29,013.05
CNY 3,425.24 3,459.84 3,570.83
DKK - 3,521.01 3,655.85
EUR 26,070.92 26,334.26 27,500.42
GBP 31,340.05 31,656.61 32,672.19
HKD 3,180.68 3,212.80 3,315.87
INR - 299.93 311.92
JPY 156.74 158.32 165.85
KRW 15.62 17.36 18.84
KWD - 82,452.28 85,748.60
MYR - 5,601.59 5,723.76
NOK - 2,233.34 2,328.16
RUB - 242.93 268.92
SAR - 6,748.19 6,996.23
SEK - 2,264.05 2,360.17
SGD 18,402.38 18,588.26 19,184.59
THB 642.56 713.95 741.29
USD 25,160.00 25,190.00 25,512.00
Cập nhật: 17/11/2024 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,200.00 25,212.00 25,512.00
EUR 26,197.00 26,302.00 27,381.00
GBP 31,523.00 31,650.00 32,588.00
HKD 3,196.00 3,209.00 3,310.00
CHF 27,965.00 28,077.00 28,907.00
JPY 158.28 158.92 165.62
AUD 16,062.00 16,127.00 16,607.00
SGD 18,516.00 18,590.00 19,093.00
THB 706.00 709.00 739.00
CAD 17,717.00 17,788.00 18,284.00
NZD 14,586.00 15,066.00
KRW 17.30 18.98
Cập nhật: 17/11/2024 09:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25268 25268 25512
AUD 16072 16172 16735
CAD 17725 17825 18376
CHF 28192 28222 29016
CNY 0 3477.7 0
CZK 0 1028 0
DKK 0 3648 0
EUR 26375 26475 27350
GBP 31631 31681 32784
HKD 0 3240 0
JPY 160.44 160.94 167.45
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.8 0
LAK 0 1.095 0
MYR 0 5952 0
NOK 0 2294 0
NZD 0 14709 0
PHP 0 407 0
SEK 0 2336 0
SGD 18551 18681 19402
THB 0 673.8 0
TWD 0 782 0
XAU 8150000 8150000 8350000
XBJ 7700000 7700000 8300000
Cập nhật: 17/11/2024 09:00