Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Trung Quốc hoài nghi về triển vọng phục hồi

21:49 | 02/05/2023

18 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Đà phục hồi kinh tế của Trung Quốc vẫn còn chưa rõ ràng khi các số liệu mới nhất cho thấy sự suy giảm trong hoạt động sản xuất.

Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất được công bố ngày 30/4 của Trung Quốc cho thấy hoạt động của nhà máy bất ngờ suy giảm do nhu cầu với hàng xuất khẩu của nước này sụt giảm. Tuy nhiên, người tiêu dùng Trung Quốc vẫn tiếp tục chi tiêu mạnh tay cho và mua sắm.

Trong tháng trước, chỉ số PMI ngành sản xuất của Trung Quốc đã giảm từ 51,9 điểm của tháng 3 xuống còn 49,2 điểm. Đây là lần đầu tiên kể từ tháng 12 năm ngoái, chỉ số này ở mức dưới 50 điểm và là dấu hiệu cho thấy sự suy giảm.

Theo các nhà phân tích, dữ liệu mới nhất cho thấy sự phục hồi của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới vẫn chưa ổn định khi hoạt động sản xuất phục hồi chậm so với chi tiêu tiêu dùng. Điều này càng củng cố quan điểm thận trọng về tăng trưởng kinh tế của các nhà lãnh đạo nước này trong cuộc họp hôm thứ sáu và sự cần thiết của việc tung ra thêm các chính sách kích thích tăng trưởng.

Trung Quốc hoài nghi về triển vọng phục hồi
PMI ngành sản xuất của Trung Quốc bất ngờ suy giảm (Ảnh: Bloomberg).

Các dữ liệu trên cho thấy đà phục hồi của Trung Quốc vẫn chưa ổn định, với lĩnh vực sản xuất tụt hậu so với lĩnh vực tiêu dùng.

"Các chỉ số trong PMI trái chiều cho thấy đà phục hồi sau Covid-19 của Trung Quốc đã phần nào mất động lực và cần tiếp tục được hỗ trợ bằng các chính sách", ông Zhou Hao, chuyên gia tại Guotai Junan International nhận xét.

Trong cuộc họp ngày 26/5, Bộ Chính trị Trung Quốc đánh giá nền kinh tế kinh tế phục hồi tốt hơn kỳ vọng nhưng sẽ vẫn tiếp tục phải đối mặt với nhiều thách thức do nhu cầu yếu.

Theo phân tích của Bloomberg Economics, bất ngờ lớn nhất là chỉ số PMI ngành sản xuất của Trung Quốc suy giảm trở lại làm dấy lên hoài nghi về sức mạnh cũng như sự bền vững của đà tăng trưởng kinh tế.

"Lĩnh vực sản xuất trọng yếu suy giảm bất chấp chi tiêu lớn của chính phủ cũng như nhu cầu tăng mạnh trong ngành dịch vụ. Đà phục hồi của Trung Quốc rất mong manh nên khó duy trì bền vững và có thể mất động lực. Triển vọng đáng lo ngại này càng cho thấy sự cần thiết phải có thêm các chính sách hỗ trợ", các chuyên gia chỉ ra.

Trong khi đó, chỉ số hoạt động phi sản xuất trong lĩnh vực dịch vụ và xây dựng cũng giảm từ mức 58,2 điểm xuống còn 56,4 điểm. Dù giảm nhưng điều này cho thấy các ngành này vẫn đang phục hồi nhờ chi tiêu của người dân và chính phủ.

Theo dữ liệu của Bộ Thương mại Trung Quốc, người mua sắm chi tiêu mạnh trong ngày 29/4, với các công ty bán lẻ và dịch vụ ăn uống lớn chứng kiến doanh số bán hàng tăng 21% so với một năm trước.

Khoảng 19,7 triệu chuyến đi bằng đường sắt đã được thực hiện trên khắp đất nước hôm 29/4. Đây là mức cao kỷ lục được ghi nhận trong một ngày. Lưu lượng giao thông trong kỳ nghỉ lễ này dự kiến cao hơn 20% so với cùng kỳ năm 2019, trước khi đại dịch Covid-19 bùng phát.

Trung Quốc hoài nghi về triển vọng phục hồi
Du lịch Trung Quốc bùng nổ dịp nghỉ lễ (Ảnh: AFP).

Thị trường nhà ở của Trung Quốc cũng tiếp tục phục hồi từ mức rất yếu cách đây một năm. Doanh số nhà mới của 100 công ty bất động sản lớn nhất Trung Quốc tăng 31,6% so với cùng kỳ.

Quý I năm nay, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới tăng trưởng với tốc độ nhanh nhất trong vòng một năm trở lại đây. Các nhà kinh tế dự báo Trung Quốc sẽ tăng trưởng mạnh hơn nữa trong quý này. Một số ngân hàng lớn đã nâng dự báo tăng trưởng cả năm của nước lên 6% hoặc cao hơn, vượt mục tiêu tăng trưởng khoảng 5% của Bắc Kinh.

Tuy nhiên, dữ liệu kinh tế trái chiều trong tháng 4 vừa công bố có thể khiến các nhà hoạch định chính sách thận trọng hơn.

"Những tín hiệu trái chiều của nền kinh tế Trung Quốc có thể sẽ buộc chính phủ phải tiếp tục thực hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ để hỗ trợ nền kinh tế trong quý II/2023", Zhang Zhiwei, chuyên gia tại Pinpoint Asset Management nhận định.

Trung Quốc là thị trường xuất khẩu điện thoại lớn nhất của Việt NamTrung Quốc là thị trường xuất khẩu điện thoại lớn nhất của Việt Nam
"Biển" người đi du lịch, Trung Quốc cảnh báo làn sóng Covid-19 mới
Giá dầu thế giới giảm trước dữ liệu kinh tế kém từ Trung QuốcGiá dầu thế giới giảm trước dữ liệu kinh tế kém từ Trung Quốc

Theo Dân trí

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 84,000 86,000
AVPL/SJC HCM 84,000 86,000
AVPL/SJC ĐN 84,000 86,000
Nguyên liệu 9999 - HN 84,600 ▲150K 85,000 ▲150K
Nguyên liệu 999 - HN 84,500 ▲150K 84,900 ▲150K
AVPL/SJC Cần Thơ 84,000 86,000
Cập nhật: 19/10/2024 19:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 84.700 ▲200K 85.700 ▲160K
TPHCM - SJC 84.000 86.000
Hà Nội - PNJ 84.700 ▲200K 85.700 ▲160K
Hà Nội - SJC 84.000 86.000
Đà Nẵng - PNJ 84.700 ▲200K 85.700 ▲160K
Đà Nẵng - SJC 84.000 86.000
Miền Tây - PNJ 84.700 ▲200K 85.700 ▲160K
Miền Tây - SJC 84.000 86.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 84.700 ▲200K 85.700 ▲160K
Giá vàng nữ trang - SJC 84.000 86.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 84.700 ▲200K
Giá vàng nữ trang - SJC 84.000 86.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 84.700 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 84.600 ▲300K 85.400 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 84.520 ▲300K 85.320 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 83.650 ▲300K 84.650 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 77.830 ▲280K 78.330 ▲280K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 62.800 ▲220K 64.200 ▲220K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 56.820 ▲200K 58.220 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 54.260 ▲190K 55.660 ▲190K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 50.840 ▲180K 52.240 ▲180K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 48.710 ▲180K 50.110 ▲180K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 34.280 ▲130K 35.680 ▲130K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 30.780 ▲120K 32.180 ▲120K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 26.930 ▲100K 28.330 ▲100K
Cập nhật: 19/10/2024 19:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,390 ▲20K 8,570 ▲20K
Trang sức 99.9 8,380 ▲20K 8,560 ▲20K
NL 99.99 8,450 ▲20K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,410 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,480 ▲20K 8,580 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,480 ▲20K 8,580 ▲20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,480 ▲20K 8,580 ▲20K
Miếng SJC Thái Bình 8,400 8,600
Miếng SJC Nghệ An 8,400 8,600
Miếng SJC Hà Nội 8,400 8,600
Cập nhật: 19/10/2024 19:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,452.20 16,618.38 17,151.77
CAD 17,776.42 17,955.98 18,532.30
CHF 28,315.00 28,601.01 29,519.00
CNY 3,450.91 3,485.77 3,597.65
DKK - 3,590.50 3,728.05
EUR 26,579.46 26,847.94 28,037.26
GBP 31,955.66 32,278.44 33,314.46
HKD 3,155.91 3,187.79 3,290.10
INR - 298.55 310.49
JPY 161.96 163.60 171.38
KRW 15.86 17.62 19.12
KWD - 81,885.84 85,160.78
MYR - 5,785.93 5,912.21
NOK - 2,265.13 2,361.33
RUB - 248.89 275.52
SAR - 6,680.64 6,947.83
SEK - 2,343.95 2,443.50
SGD 18,685.35 18,874.09 19,479.88
THB 670.26 744.74 773.27
USD 24,950.00 24,980.00 25,340.00
Cập nhật: 19/10/2024 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,010.00 25,030.00 25,370.00
EUR 26,780.00 26,888.00 28,015.00
GBP 32,280.00 32,410.00 33,408.00
HKD 3,178.00 3,191.00 3,297.00
CHF 28,525.00 28,640.00 29,529.00
JPY 163.91 164.57 172.01
AUD 16,609.00 16,676.00 17,189.00
SGD 18,845.00 18,921.00 19,473.00
THB 740.00 743.00 776.00
CAD 17,933.00 18,005.00 18,543.00
NZD 15,047.00 15,556.00
KRW 17.60 19.38
Cập nhật: 19/10/2024 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24985 24985 25345
AUD 16538 16638 17208
CAD 17889 17989 18549
CHF 28642 28672 29476
CNY 0 3506 0
CZK 0 1030 0
DKK 0 3638 0
EUR 26821 26921 27794
GBP 32303 32353 33470
HKD 0 3220 0
JPY 164.89 165.39 171.9
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.059 0
MYR 0 5974 0
NOK 0 2304 0
NZD 0 15075 0
PHP 0 408 0
SEK 0 2395 0
SGD 18786 18916 19646
THB 0 703.9 0
TWD 0 772 0
XAU 8400000 8400000 8600000
XBJ 7700000 7700000 8200000
Cập nhật: 19/10/2024 19:00