Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Trung Quốc chấm dứt đầu tư điện than ở nước ngoài

10:41 | 21/12/2021

334 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gần đây tuyên bố chấm dứt đầu tư vào các nhà máy điện than mới ở nước ngoài. Quyết định này có lợi cho tiến trình giảm phát thải khí nhà kính, nhưng có thể gây nguy hiểm cho chính sách năng lượng của châu Phi, nơi Trung Quốc có nhiều dự án đầu tư nhiệt điện than.
Trung Quốc chấm dứt đầu tư điện than ở nước ngoài
Ông Tập Cận Bình tuyên bố: Trung Quốc sẽ ngừng xây dựng các dự án nhiệt điện than mới ở nước ngoài

Trong bài phát biểu tại kỳ họp thứ 76 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thông báo việc Trung Quốc chấm dứt đầu tư vào các nhà máy điện than mới ở nước ngoài.

Tuyên bố của ông Tập Cận Bình đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của các nhà hoạt động khí hậu. “Than trở thành dĩ vãng”, “một bước tiến lớn”, “một cuộc cách mạng nhỏ” là những câu nói của Chủ tịch COP26 Alok Sharma để chào đón bước ngoặt này.

“Cam kết của Trung Quốc cho thấy kênh tài chính công quốc tế dành cho than đang cạn kiệt. Nó thể hiện một bước ngoặt lịch sử trong việc từ bỏ nhiên liệu hóa thạch gây ô nhiễm nhất trên thế giới”, bà Helen Mountford - Phó chủ tịch phụ trách khí hậu và kinh tế của Viện Tài nguyên thế giới, khẳng định.

Tuy nhiên, Chủ tịch Trung Quốc không cung cấp thông tin chi tiết về hướng đi, thời gian chấm dứt tài trợ cho các nhà máy điện than mới ở nước ngoài. Có thể dễ dàng hiểu được điều này, bởi trong nhiều năm qua, Trung Quốc là nhà cung cấp tài chính hàng đầu cho các dự án nhiệt điện than trên khắp thế giới.

Báo cáo của Oil Change International công bố vào tháng 3-2021 cho thấy, nguồn tài chính cho các dự án khai thác than, các nhà máy nhiệt điện than hầu như chỉ được cung cấp bởi các ngân hàng Trung Quốc như Industrial Bank, China Construction Bank, Bank of China, Ngân hàng Công thương Trung Quốc.

Đầu tư nước ngoài của Trung Quốc tập trung ở Đông Nam Á (đặc biệt là Indonesia và Việt Nam) và châu Phi. Ở khu vực châu Phi, Cơ quan Giám sát năng lượng toàn cầu (GEM) liệt kê các ngân hàng Trung Quốc tham gia 4 trong 5 dự án nhiệt điện than đã hoàn thành. Sự hiện diện của Trung Quốc còn rõ ràng hơn khi xem xét các dự án nhiệt điện than đang dự toán kinh phí. Các ngân hàng Trung Quốc hiện hữu phần lớn trong những dự án nhiệt điện than ở Malawi, Kenya, Zambia, Mozambique, Botswana, Zimbabwe.

Trung Quốc chấm dứt đầu tư điện than ở nước ngoài
Khai thác than ở Nam Phi

Vào tháng 5-2020, Trung Quốc đã đồng ý tài trợ cho dự án 4,2 tỉ USD để xây dựng Nhà máy Nhiệt điện than Sengwa khổng lồ ở Zimbabwe, sau đó thông báo rút lui vào tháng 6-2021. Tuyên bố của một trong những nhà quản lý dự án địa phương cho thấy rõ sự phụ thuộc của các nước châu Phi vào tài trợ của Trung Quốc. “Chúng tôi rất vui vì dự án đang được tiến hành, đặc biệt là khi các ngân hàng lớn trên thế giới buộc phải ngừng cấp vốn cho các nhà máy nhiệt điện than. Nhưng thật buồn là giờ đây dự án đã bị dừng lại vì thiếu vốn” - Caleb Dengu, Chủ tịch công ty quản lý Dự án RioZim Energy, thừa nhận.

Một nghịch lý là các ngân hàng Nam Phi, quốc gia phụ thuộc 80% vào than cho nhu cầu điện, đang tham gia xu hướng ngừng tài trợ cho các dự án than và nhiệt điện than. Vài tháng trước, Nedbank cho biết ý định không còn tài trợ cho các dự án than mới kể từ năm 2025. Đây là ngân hàng đầu tiên ở châu Phi bỏ cuộc.

Để đạt được lượng carbon ròng bằng 0 vào năm 2050, Ngân hàng FirstRand của Nam Phi đã công bố quyết định không còn tài trợ cho các mỏ than mới hoặc nhà máy nhiệt điện than mới.

Than không đại diện cho nguồn thu nhập xuất khẩu chính của các quốc gia châu Phi nhưng than lại là nhiên liệu chính tạo ra nguồn điện ở những quốc gia lục địa đen. Ngoài ra, trong khi một số quốc gia như Zambia, Nam Phi hay Zimbabwe phải đối mặt với vấn đề thiếu hụt năng lượng tái diễn, thì việc xây dựng các nhà máy nhiệt điện than mới là một trong những giải pháp được cân nhắc, đặc biệt là khi trữ lượng than chưa được khai thác vẫn còn rất lớn.

“Thế giới tiếp tục coi than đá như một loại khoáng sản bẩn. Nhưng chúng tôi tin rằng không thể bỏ mặc nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào do Chúa ban tặng. Chúng tôi cần khai thác nó một cách sạch sẽ hơn vì lợi ích của cộng đồng và quốc gia” - Lefoko Moagi, Bộ trưởng Khoáng sản, Công nghệ xanh và Tài nguyên năng lượng của Botswana, tóm tắt tư duy chung của các quốc gia châu Phi.

Với sự kết thúc của các dự án khai thác than mới, cùng với đó là sự từ bỏ trữ lượng than khổng lồ, bức tranh năng lượng của các nước châu Phi không hoàn toàn ảm đạm. Là một phần của cuộc cách mạng xanh, các quốc gia bị ảnh hưởng bởi việc rút khỏi lĩnh vực than đá thực sự có thể hưởng lợi từ nguồn tài chính mới cho các dự án năng lượng sạch như điện mặt trời và điện gió, những dự án này đã được thực hiện ở quy mô nhỏ ở các quốc gia châu Phi.

Các đại diện Mỹ, Anh, Đức, Pháp... đã bắt đầu các cuộc đàm phán với chính phủ và các nhà lãnh đạo doanh nghiệp châu Phi. Các cuộc thảo luận sẽ giúp xác định cách các nước giàu có thể hỗ trợ việc chấm dứt phụ thuộc vào than đá. Mỹ và Trung Quốc đã thông báo về các sáng kiến có lợi cho một chiến lược như vậy, rất nhiều hy vọng cho khu vực phía nam châu Phi.

“Trung Quốc sẽ tăng cường hỗ trợ các nước đang phát triển khác để phát triển năng lượng xanh và carbon thấp”, ông Tập Cận Bình nói.

Báo cáo của Oil Change International công bố vào tháng 3-2021 cho thấy, nguồn tài chính cho các dự án khai thác than, các nhà máy nhiệt điện than hầu như chỉ được cung cấp bởi các ngân hàng Trung Quốc như Industrial Bank, China Construction Bank, Bank of China, Ngân hàng Công thương Trung Quốc.

S.Phương

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 82,750 83,000
Nguyên liệu 999 - HN 82,650 82,900
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 05/10/2024 00:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 82.800 83.600
TPHCM - SJC 82.000 84.000
Hà Nội - PNJ 82.800 83.600
Hà Nội - SJC 82.000 84.000
Đà Nẵng - PNJ 82.800 83.600
Đà Nẵng - SJC 82.000 84.000
Miền Tây - PNJ 82.800 83.600
Miền Tây - SJC 82.000 84.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 82.800 83.600
Giá vàng nữ trang - SJC 82.000 84.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 82.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.000 84.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 82.800
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 82.700 83.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 82.620 83.420
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 81.770 82.770
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 76.090 76.590
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 61.380 62.780
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 55.530 56.930
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 53.030 54.430
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 49.690 51.090
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 47.600 49.000
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 33.490 34.890
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 30.060 31.460
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 26.310 27.710
Cập nhật: 05/10/2024 00:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,190 8,360
Trang sức 99.9 8,180 8,350
NL 99.99 8,230
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 8,210
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,280 8,370
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,280 8,370
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,280 8,370
Miếng SJC Thái Bình 8,200 8,400
Miếng SJC Nghệ An 8,200 8,400
Miếng SJC Hà Nội 8,200 8,400
Cập nhật: 05/10/2024 00:02
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 84,000
SJC 5c 82,000 84,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 84,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 82,000 83,300
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 82,000 83,400
Nữ Trang 99.99% 81,950 83,000
Nữ Trang 99% 80,178 82,178
Nữ Trang 68% 54,096 56,596
Nữ Trang 41.7% 32,264 34,764
Cập nhật: 05/10/2024 00:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,496.82 16,663.45 17,198.73
CAD 17,792.83 17,972.56 18,549.89
CHF 28,322.35 28,608.43 29,527.42
CNY 3,438.59 3,473.32 3,584.90
DKK - 3,591.92 3,729.62
EUR 26,595.63 26,864.28 28,055.04
GBP 31,727.06 32,047.54 33,077.00
HKD 3,107.70 3,139.09 3,239.92
INR - 294.09 305.86
JPY 163.16 164.81 172.66
KRW 15.98 17.76 19.27
KWD - 80,714.67 83,944.94
MYR - 5,807.27 5,934.16
NOK - 2,286.11 2,383.26
RUB - 248.41 275.00
SAR - 6,574.00 6,837.09
SEK - 2,356.01 2,456.14
SGD 18,604.97 18,792.89 19,396.58
THB 661.99 735.55 763.75
USD 24,550.00 24,580.00 24,940.00
Cập nhật: 05/10/2024 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,570.00 24,590.00 24,930.00
EUR 26,777.00 26,885.00 28,005.00
GBP 31,882.00 32,010.00 33,001.00
HKD 3,122.00 3,135.00 3,241.00
CHF 28,507.00 28,621.00 29,526.00
JPY 164.72 165.38 173.02
AUD 16,633.00 16,700.00 17,213.00
SGD 18,748.00 18,823.00 19,380.00
THB 727.00 730.00 763.00
CAD 17,927.00 17,999.00 18,547.00
NZD 15,124.00 15,632.00
KRW 17.78 19.64
Cập nhật: 05/10/2024 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24600 24600 24940
AUD 16586 16686 17259
CAD 17914 18014 18565
CHF 28664 28694 29487
CNY 0 3493.5 0
CZK 0 1028 0
DKK 0 3644 0
EUR 26849 26949 27822
GBP 32080 32130 33242
HKD 0 3180 0
JPY 166.18 166.68 173.19
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.3 0
LAK 0 1.0501 0
MYR 0 6104 0
NOK 0 2325 0
NZD 0 15159 0
PHP 0 420 0
SEK 0 2395 0
SGD 18716 18846 19577
THB 0 694.9 0
TWD 0 768 0
XAU 8200000 8200000 8400000
XBJ 7700000 7700000 8100000
Cập nhật: 05/10/2024 00:02