Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Dow Jones mất gần 500 điểm vì lo ngại Fed thắt chặt chính sách hơn

08:53 | 06/12/2022

Theo dõi PetroTimes trên
|
Chứng khoán Mỹ đồng loạt giảm trong phiên đầu tuần hôm qua do lo ngại Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có thể tiếp tục thắt chắt chính sách cho đến khi khiến nền kinh tế rơi vào suy thoái.

Chốt phiên hôm qua, chỉ số Dow Jones giảm 482,78 điểm, tương đương 1,4%, xuống 33.947,10 điểm. Chỉ số S&P 500 giảm 1,79% xuống 3.998,84 điểm. Trong khi đó, chỉ số Nasdaq Composite giảm 1,93%, kết thúc phiên ở mức 11.239,94 điểm.

Dow Jones mất gần 500 điểm vì lo ngại Fed thắt chặt chính sách hơn - 1
Chứng khoán Mỹ đi xuống do lo ngại Fed sẽ thắt chặt chính sách hơn cho đến khi nền kinh tế có thể rơi vào suy thoái (Nguồn: CNBC).

Góp phần lớn vào mức giảm chung này là cổ phiếu Tesla khi giảm khoảng 6,4% sau báo cáo cắt giảm sản lượng tại nhà máy Thượng Hải. Các cổ phiếu công nghệ như Amazon, Netflix lần lượt giảm 3,3% và 2,4% do lo ngại về tăng trưởng. Cổ phiếu Salesforce lao dốc gần 7,4% khi CEO của Slack thông báo ra đi.

Dữ liệu dịch vụ ISM, chỉ số của viện quản lý cung ứng Mỹ nhằm cung cấp các bằng chứng sớm cho thấy nền kinh tế biểu thị như thế nào trong tháng trước, trong tháng 11 đã nóng hơn dự kiến càng làm gia tăng lo ngại Fed sẽ tiếp tục tăng lãi suất sau khi vượt ước tính của Dow Jones và tăng từ tháng 10.

Lợi suất trái phiếu cao hơn khi cổ phiếu giảm, với lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm giao dịch ở mức 3,588%, tăng gần 9 điểm cơ bản vào cuối ngày hôm qua.

"Rõ ràng, thị trường trái phiếu muốn tăng cao hơn nhưng điều đó phụ thuộc rất nhiều vào việc lạm phát có được kiểm soát hay không. Và vì vậy, khi có bất kỳ số liệu kinh tế nào vượt dự đoán đều dẫn đến lo ngại về lạm phát, khiến lãi suất sẽ tăng cao hơn", ông Peter Essele, Phó chủ tịch cấp cao về quản lý và nghiên cứu đầu tư của Commonwealth Financial Network, nói.

Sau bài phát biểu của Chủ tịch Fed Jerome Powell vào tuần trước, thị trường phần lớn kỳ vọng ngân hàng trung ương Mỹ sẽ tăng lãi suất ở mức 0,5%, thay vì mức 0,75% như đã đưa ra trong 4 lần liên tiếp trước đó.

Đồng thời, ông Powell cũng cho biết "lãi suất cuối cùng" mà Fed sẽ ngừng tăng có thể sẽ cao hơn một chút so với con số mà họ đã đưa ra trong cuộc họp hồi tháng 9. Điều đó có nghĩa lãi suất quỹ liên bang có thể vượt mức 5%, từ mức hiện tại 3,75%-4%.

Nhưng trong bài viết hôm qua, chuyên gia Jim Cramer của CNBC cho rằng, có 4 lý do khiến Fed vẫn chưa thể ngừng thắt chặt nền kinh tế. Một là không đủ người tái gia nhập lực lượng lao động, khiến Fed gặp khó khăn trong việc dập tắt lạm phát tiền lương. Hai là có sự không phù hợp giữa cơ hội việc làm và người tìm việc. Ba là có quá nhiều nhân sự trong lĩnh vực quản lý khách hàng, phân tích dữ liệu và quảng cáo. Sự dư thừa này chứng tỏ ngành này đang phình to và có thể dẫn đến nhiều đợt sa thải hơn. Bốn là có quá nhiều công ty mới được thành lập trong 2 năm qua.

Vì vậy, ông cho rằng Fed sẽ không ngừng thắt chặt chính sách cho đến khi họ thấy thêm bằng chứng về thiệt hại kinh tế thực sự.

Ông Cramer cũng cho rằng biến động của thị trường hiện nay là do nhà đầu tư dự đoán ngân hàng trung ương Mỹ sẽ tiếp tục với cuộc chiến chống lạm phát như thế nào. "Đánh giá động thái tiếp theo của Fed là một nghệ thuật hơn là khoa học", ông nói.

Theo Dân trí

Tài sản đại gia gốc Nam Định sụt giảm dù thị trường hồi phụcTài sản đại gia gốc Nam Định sụt giảm dù thị trường hồi phục
Qua cơn bán tháo, giới đầu tư đổ tiền đua giá cổ phiếu bất động sảnQua cơn bán tháo, giới đầu tư đổ tiền đua giá cổ phiếu bất động sản
Nga tuyên bố cứng rắn trước việc áp đặt trần giá dầuNga tuyên bố cứng rắn trước việc áp đặt trần giá dầu
Trung Quốc lên tiếng sau khi phương Tây áp giá trần với dầu NgaTrung Quốc lên tiếng sau khi phương Tây áp giá trần với dầu Nga
Bị giới hạn giá dầu bán ra, Nga chuẩn bị các biện pháp trả đũaBị giới hạn giá dầu bán ra, Nga chuẩn bị các biện pháp trả đũa

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 87,500 89,500
AVPL/SJC HCM 87,500 89,500
AVPL/SJC ĐN 87,500 89,500
Nguyên liệu 9999 - HN 87,900 88,300
Nguyên liệu 999 - HN 87,800 88,200
AVPL/SJC Cần Thơ 87,500 89,500
Cập nhật: 04/11/2024 05:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 88.000 89.150
TPHCM - SJC 87.500 89.500
Hà Nội - PNJ 88.000 89.150
Hà Nội - SJC 87.500 89.500
Đà Nẵng - PNJ 88.000 89.150
Đà Nẵng - SJC 87.500 89.500
Miền Tây - PNJ 88.000 89.150
Miền Tây - SJC 87.500 89.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 88.000 89.150
Giá vàng nữ trang - SJC 87.500 89.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 88.000
Giá vàng nữ trang - SJC 87.500 89.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 88.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 87.900 88.700
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 87.810 88.610
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 86.910 87.910
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 80.850 81.350
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 65.280 66.680
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 59.070 60.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 56.410 57.810
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 52.860 54.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 50.640 52.040
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 35.650 37.050
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 32.010 33.410
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 28.020 29.420
Cập nhật: 04/11/2024 05:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,710 8,900
Trang sức 99.9 8,700 8,890
NL 99.99 8,740
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,730
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,800 8,910
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,800 8,910
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,800 8,910
Miếng SJC Thái Bình 8,750 8,950
Miếng SJC Nghệ An 8,750 8,950
Miếng SJC Hà Nội 8,750 8,950
Cập nhật: 04/11/2024 05:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,175.04 16,338.42 16,862.69
CAD 17,693.89 17,872.61 18,446.11
CHF 28,395.84 28,682.66 29,603.03
CNY 3,459.46 3,494.40 3,606.53
DKK - 3,616.27 3,754.78
EUR 26,771.11 27,041.53 28,239.20
GBP 31,800.55 32,121.77 33,152.49
HKD 3,168.93 3,200.93 3,303.65
INR - 300.09 312.09
JPY 159.91 161.53 169.21
KRW 15.87 17.63 19.13
KWD - 82,255.58 85,544.62
MYR - 5,716.20 5,840.91
NOK - 2,251.43 2,347.03
RUB - 247.98 274.52
SAR - 6,715.37 6,983.88
SEK - 2,317.22 2,415.61
SGD 18,614.60 18,802.62 19,405.96
THB 659.61 732.90 760.97
USD 25,084.00 25,114.00 25,454.00
Cập nhật: 04/11/2024 05:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,130.00 25,144.00 25,454.00
EUR 26,988.00 27,096.00 28,194.00
GBP 32,026.00 32,155.00 33,112.00
HKD 3,189.00 3,202.00 3,305.00
CHF 28,741.00 28,856.00 29,717.00
JPY 162.13 162.78 169.84
AUD 16,333.00 16,399.00 16,889.00
SGD 18,786.00 18,861.00 19,384.00
THB 728.00 731.00 762.00
CAD 17,839.00 17,911.00 18,420.00
NZD 14,878.00 15,367.00
KRW 17.59 19.34
Cập nhật: 04/11/2024 05:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25126 25126 25454
AUD 16248 16348 16918
CAD 17804 17904 18455
CHF 28736 28766 29559
CNY 0 3514.7 0
CZK 0 1040 0
DKK 0 3670 0
EUR 27010 27110 27982
GBP 32149 32199 33302
HKD 0 3280 0
JPY 162.52 163.02 169.53
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.095 0
MYR 0 6027 0
NOK 0 2312 0
NZD 0 14883 0
PHP 0 415 0
SEK 0 2398 0
SGD 18702 18832 19564
THB 0 690.8 0
TWD 0 790 0
XAU 8750000 8750000 8950000
XBJ 8200000 8200000 8700000
Cập nhật: 04/11/2024 05:45