Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Dấu hỏi lạm phát

16:44 | 17/05/2012

560 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính đã đề xuất nhiều nhóm giải pháp để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Nếu các giải pháp này được áp dụng cùng lúc, liệu có ảnh hưởng đến mục tiêu ổn định vĩ mô, giữ lạm phát cả năm ở mức khoảng 9%?

Trước nỗi lo nền kinh tế có biểu hiện đình trệ, Ngân hàng Nhà nước đã áp trần cho vay 15%/năm đối với 4 lĩnh vực ưu tiên để tháo gỡ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp.

Bộ Tài chính tính toán, gói giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp sẽ giúp tăng tổng cầu thêm khoảng 13.000 tỉ đồng.

Tiếp đó, Bộ Tài chính đã đề xuất cùng lúc 5 nhóm giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp như miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm tiền thuê đất, điều chỉnh chi tiêu công, gia hạn thuế giá trị gia tăng, lùi thời hạn thu phí bảo trì đường bộ. Các giải pháp này sẽ làm giảm thu ngân sách năm 2012 xuống 9.000 tỉ đồng, nhưng tạo ra hiệu ứng tới 29.000 tỉ đồng. Trong số này, Bộ Tài chính tính toán sẽ giúp tăng tổng cầu khoảng 13.000 tỉ đồng. Bộ Tài chính cũng cho biết sẽ làm việc với Ngân hàng Nhà nước để dừng phát hành tín phiếu và đẩy nhanh phát hành trái phiếu trong kế hoạch được duyệt của năm 2012 để đưa vào các dự án đầu tư công.

Còn có một yếu tố khác có thể giúp tạo cầu cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng. Đó là trong kỳ họp Thường vụ Quốc hội vừa rồi, nhiều ý kiến đã đồng tình với việc sử dụng khoảng 10.000 tỉ đồng vốn trái phiếu chính phủ giai đoạn 2012-2015 để đầu tư cho một số dự án.

Trong số những giải pháp vừa nêu, ngoài việc giảm lãi suất đã được Ngân hàng Nhà nước triển khai, các đề xuất khác còn phải chờ Chính phủ ra Nghị quyết và Quốc hội thông qua tại kỳ họp dự kiến diễn ra vào ngày 21/5 tới. Nếu được phê duyệt thì cùng lúc sẽ có nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp được triển khai.

Các nhóm giải pháp này không phải là gói kích cầu, nhưng điều dễ thấy là chúng sẽ tạo ra một sức cầu không nhỏ cho nền kinh tế. Ngoài khoảng 13.000 tỉ đồng được đưa vào tổng cầu (theo tính toán của Bộ Tài chính), việc đẩy nhanh phân bổ vốn, triển khai các dự án xây dựng cơ bản (sử dụng 180.000 tỉ đồng từ ngân sách cho năm 2012) và huy động trái phiếu chính phủ (45.000 tỉ đồng trong năm 2012) sẽ là cửa thoát lớn cho nhiều loại hàng hóa tồn kho, đặc biệt là nhóm hàng cơ bản như vật liệu xây dựng.

Lượng tiền không nhỏ nói trên, một khi được bơm vào nền kinh tế, liệu có ảnh hưởng đến mục tiêu ổn định vĩ mô, giữ lạm phát cả năm ở mức 9%?

Ông Vũ Nhữ Thăng, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính, thuộc Bộ Tài chính, cho rằng các giải pháp tài chính mà Bộ đưa ra sẽ không tác động nhiều đến lạm phát. Ông dẫn chứng, những tháng cuối năm 2011 và 4 tháng đầu năm 2012, tổng cầu đang yếu, chi tiêu công mới đang trong quá trình triển khai, tiêu dùng của người dân chững lại. Do vậy nguy cơ lạm phát do cầu kéo chưa đáng ngại. Còn về nguy cơ lạm phát do chi phí đẩy, mặc dù vừa qua giá một số nguyên liệu nhập khẩu có tăng, nhưng theo dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Phát triển châu Á hay Ngân hàng Thế giới, giá cả sẽ tăng thấp hơn so với năm 2011. Như vậy, cũng không ảnh hưởng nhiều đến lạm phát trong nước.

Trong khi đó, với quan điểm thận trọng, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng nếu các giải pháp hỗ trợ của Chính phủ không đi đúng đối tượng, lạm phát có thể quay trở lại. Ví như lúc này mà các ngân hàng khoanh nợ, giãn nợ đối với một số đối tượng có nợ xấu, nhất là lĩnh vực bất động sản, có thể họ lại được cứu, rồi lại đầu cơ theo kiểu cũ. Nếu điều đó xảy ra thì sẽ tác động tiêu cực đến lạm phát.

Cũng liên quan đến bất động sản, trong các giải pháp của Bộ Tài chính có đề xuất gia hạn nộp tiền sử dụng đất trong thời gian tối đa 12 tháng đối với các dự án có khó khăn về tài chính. Điều này do cơ quan chức năng địa phương quyết định. Như vậy, các chủ đầu tư có cơ hội để giữ giá nhà đất, trong khi lẽ ra lúc này giá đã phải giảm giá sâu hơn.

Về việc tạo cầu thông qua đẩy nhanh các dự án đầu tư công, bà Phạm Chi Lan cho rằng nếu huy động trái phiếu chính phủ và ngân hàng là người bỏ tiền ra mua thì phần vốn dành cho doanh nghiệp vay sẽ bị giảm, khiến giá vốn bị đẩy lên cao. Chủ đầu tư các dự án trúng thầu lại đi vay ngân hàng, nghĩa là vốn vẫn bị hút vốn vào những dự án đầu tư công. Như vậy cũng sẽ là vòng luẩn quẩn của lạm phát.

Vậy ý kiến nào đúng? Khi nhìn tổng thể các nhóm giải pháp được đề xuất, Tiến sĩ Võ Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, cho rằng đây không phải là gói kích cầu, mà là các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp. “Trong điều kiện hiện nay, khi lạm phát đang hạ nhiệt, tổng cầu giảm mạnh, tăng trưởng tín dụng 4 tháng đầu năm bị âm, sản xuất khó khăn thì các nhóm giải pháp này chưa phải chất xúc tác mạnh có thể khiến lạm phát quay trở lại”, ông nói.

Đã một tuần kể từ khi trần lãi suất cho vay 15%/năm được áp dụng nhưng các phương tiện truyền thông vẫn phản ánh các doanh nghiệp kêu ca là khó vay. Lãi suất hạ không có nghĩa là doanh nghiệp có thể vay được vốn, vì còn phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có đáp ứng được các điều kiện xét duyệt. Nghĩa là chưa phải lo ngại có sự đột biến trong tăng trưởng tín dụng.

Với cái nhìn lạc quan, ông Thành tin rằng các chính sách sẽ phát huy tác dụng. Bởi lẽ, ngay trong tháng 4, chỉ số sản xuất công nghiệp có dấu hiệu nhích lên; nhập siêu trong tháng cũng tăng lên. Mức tăng này chủ yếu là do tăng nhập khẩu nguyên nhiên liệu đầu vào, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh.

Tuy nhiên, ông Thành cũng lưu ý mục tiêu lạm phát phải đạt dưới 10%. “Sau khi áp dụng chính sách được 3-4 tháng, cần nhìn lại kết quả đạt được, để từ đó xem xét điều chỉnh chính sách cho phù hợp”, ông nói.

{lang: 'vi'}

Theo NCĐT

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 82,000 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 82,750 83,000
Nguyên liệu 999 - HN 82,650 82,900
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 05/10/2024 00:02
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 82.800 83.600
TPHCM - SJC 82.000 84.000
Hà Nội - PNJ 82.800 83.600
Hà Nội - SJC 82.000 84.000
Đà Nẵng - PNJ 82.800 83.600
Đà Nẵng - SJC 82.000 84.000
Miền Tây - PNJ 82.800 83.600
Miền Tây - SJC 82.000 84.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 82.800 83.600
Giá vàng nữ trang - SJC 82.000 84.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 82.800
Giá vàng nữ trang - SJC 82.000 84.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 82.800
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 82.700 83.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 82.620 83.420
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 81.770 82.770
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 76.090 76.590
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 61.380 62.780
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 55.530 56.930
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 53.030 54.430
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 49.690 51.090
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 47.600 49.000
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 33.490 34.890
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 30.060 31.460
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 26.310 27.710
Cập nhật: 05/10/2024 00:02
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,190 8,360
Trang sức 99.9 8,180 8,350
NL 99.99 8,230
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 8,210
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,280 8,370
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,280 8,370
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,280 8,370
Miếng SJC Thái Bình 8,200 8,400
Miếng SJC Nghệ An 8,200 8,400
Miếng SJC Hà Nội 8,200 8,400
Cập nhật: 05/10/2024 00:02
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 84,000
SJC 5c 82,000 84,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 84,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 82,000 83,300
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 82,000 83,400
Nữ Trang 99.99% 81,950 83,000
Nữ Trang 99% 80,178 82,178
Nữ Trang 68% 54,096 56,596
Nữ Trang 41.7% 32,264 34,764
Cập nhật: 05/10/2024 00:02

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,496.82 16,663.45 17,198.73
CAD 17,792.83 17,972.56 18,549.89
CHF 28,322.35 28,608.43 29,527.42
CNY 3,438.59 3,473.32 3,584.90
DKK - 3,591.92 3,729.62
EUR 26,595.63 26,864.28 28,055.04
GBP 31,727.06 32,047.54 33,077.00
HKD 3,107.70 3,139.09 3,239.92
INR - 294.09 305.86
JPY 163.16 164.81 172.66
KRW 15.98 17.76 19.27
KWD - 80,714.67 83,944.94
MYR - 5,807.27 5,934.16
NOK - 2,286.11 2,383.26
RUB - 248.41 275.00
SAR - 6,574.00 6,837.09
SEK - 2,356.01 2,456.14
SGD 18,604.97 18,792.89 19,396.58
THB 661.99 735.55 763.75
USD 24,550.00 24,580.00 24,940.00
Cập nhật: 05/10/2024 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,570.00 24,590.00 24,930.00
EUR 26,777.00 26,885.00 28,005.00
GBP 31,882.00 32,010.00 33,001.00
HKD 3,122.00 3,135.00 3,241.00
CHF 28,507.00 28,621.00 29,526.00
JPY 164.72 165.38 173.02
AUD 16,633.00 16,700.00 17,213.00
SGD 18,748.00 18,823.00 19,380.00
THB 727.00 730.00 763.00
CAD 17,927.00 17,999.00 18,547.00
NZD 15,124.00 15,632.00
KRW 17.78 19.64
Cập nhật: 05/10/2024 00:02
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24600 24600 24940
AUD 16586 16686 17259
CAD 17914 18014 18565
CHF 28664 28694 29487
CNY 0 3493.5 0
CZK 0 1028 0
DKK 0 3644 0
EUR 26849 26949 27822
GBP 32080 32130 33242
HKD 0 3180 0
JPY 166.18 166.68 173.19
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.3 0
LAK 0 1.0501 0
MYR 0 6104 0
NOK 0 2325 0
NZD 0 15159 0
PHP 0 420 0
SEK 0 2395 0
SGD 18716 18846 19577
THB 0 694.9 0
TWD 0 768 0
XAU 8200000 8200000 8400000
XBJ 7700000 7700000 8100000
Cập nhật: 05/10/2024 00:02