Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Trung Quốc bên bờ khủng hoảng tài chính

09:43 | 22/03/2016

2,083 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Các dữ liệu về nền kinh tế được ông Evan Lorenz – một chuyên gia về Trung Quốc phân tích trên Epoch Times cho thấy, nền kinh tế Trung Quốc đang đứng trước nguy cơ khủng hơn nghiêm trọng.
trung quoc ben bo khung hoang tai chinh
 

Những năm qua, với tốc độ tăng trưởng được đánh giá là “thần tốc”, kinh tế Trung Quốc nhanh chóng vươn lên là nền kinh tế hàng đầu thế giới và hiện chỉ đứng sau Hoa Kỳ. Các sản phẩm hàng hóa của Trung Quốc có mặt tại hầu hết các quốc gia, vùng lãnh thổ. Ở chiều ngược lại, Trung Quốc với khoảng 1,4 tỉ dân cũng được biết đến là thị trường tiêu thụ hàng hóa, đặc biệt là các mặt hàng xa xỉ hàng đầu thế giới… Tầm ảnh hưởng của Trung Quốc đến các thị trường khác vì thế cũng vô cùng lớn. Và mọi sự biến động của nền kinh tế Trung Quốc đều tạo lên những tác động rất lớn đến nền kinh tế toàn cầu.

Vậy nên khoảng 2 – 3 năm gần đây, trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế toàn cầu, kinh tế Trung Quốc có dấu hiệu chững lại, thậm chí, theo những dữ liệu được công bố thời gian gần đây, nhiều chuyên gia đã đưa ra những nhận định rất bi quan về khả năng xảy ra một cuộc khủng hoảng kinh tế ở Trung Quốc.

Trả lời trên Epoch Times, Evan Lorenz đề cập có vẻ như là bong bóng đầu tư quá mức của Trung Quốc đang bắt đầu gây ra những hậu quả xấu đối với Trung Quốc và phần còn lại của thế giới vào lúc này.

Và để khẳng định điều này, Evan Lorenz đưa số liệu Trung Quốc có một nền kinh tế với qui mô xấp xỉ 10 ngàn tỉ USD; hệ thống ngân hàng của Trung Quốc có qui mô khoảng hơn 29 ngản tỉ USD. Đồng thời dẫn lời nhà đồng sáng lập công ty phân tích JCapital Research Anne Stevenson-Yang sau khi xem xét số lượng các khoản vay và trái phiếu, những khoản phải được gia hạn hoặc đảo nợ rằng: Các ngân hàng đang đảo nợ cho các khoản vay có vấn đề, thay vì thực sự xóa bỏ chúng. Vì thế, số liệu trên bảng cân đối tài sản của các ngân hàng trông rất đẹp, nhưng vấn đề này chỉ là đã bị chuyển cho tương lai. Điều đó sẽ có nghĩa là nợ xấu so với GDP là khoảng 68% và lần cuối mà Trung Quốc có bong bóng đầu tư quá mức là vào cuối năm 1999.

Nhưng theo những dữ liệu Evan Lorenz đưa ra thì vào năm 1999, nợ xấu của Trung Quốc được ước tính bằng 33% GDP. Như vậy, vấn đề nợ xấu của Trung Quốc đang phải đối diện đã gấp 2 lần so với năm 1999. Nhưng nếu như năm 1999, Trung Quốc đã có nhiều giải pháp để giải quyết nợ xấu và cũng chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); mở cửa nền kinh tế nhiều hơn cho đầu tư nước ngoài... như cho phép các ngân hàng Mỹ và các ngân hàng nước ngoài khác đến đầu tư thành lập các ngân hàng 100% vốn nước ngoài và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, mua lại cổ phần và nâng cao năng lực quản trị của các ngân hàng trong nước thì nay, Trung Quốc không còn có một WTO nữa để có thể tham gia, nền kinh tế của Trung Quốc đã được mở cho đầu tư nước ngoài, và hệ thống ngân hàng của Trung Quốc là lớn hơn nhiều so với phần còn lại của thế giới.

Quy mô ngân hàng của Trung Quốc cũng được xác định là quá lớn (khoảng 40% GDP toàn cầu) và đây là điều cũng không có tiền lệ. Tài sản các ngân hàng của Mỹ, đạt đỉnh điểm vào năm 1985, chiếm khoảng 33% GDP. Còn các ngân hàng của Nhật Bản, khi đồng Yên tăng mạnh trong những năm đầu 90 thì tổng tài sản cũng chỉ đạt đỉnh ở mức 27% GDP. Trong khi đó, những năm 1991, khi nhìn vào hệ thống ngân hàng của Nhật bản thì hầu như không có khả năng thanh toán. Nhưng họ cũng không xóa nợ và trong 20 năm tiếp theo, đó nền kinh tế Nhật Bản không có tăng trưởng thực sự.

Một giả định đã được đặt ra rằng, để giải quyết vấn đề nợ xấu, Trung Quốc cần phải đạt mức tăng trưởng kinh tế gấp đôi, tức vào khoảng 20% trong 6 tới 7 năm tới. Và theo Evan Lorenz thì đây là mức tăng trưởng kể cả những người lạc quan nhất cũng không thể nghĩ tới.

Trong khi đó, dân số có độ tuổi lao động của Trung Quốc đã lên đến đỉnh điểm vào năm 2015 (theo Ngân hàng Thế giới). Và lượng lao động này cũng sẽ bắt đầu giảm đi cùng với thời điểm mà nợ ở Trung Quốc đang ở mức khổng lồ như hiện nay.

“Bạn có rất nhiều khoản nợ mà bạn không có khă năng thanh toán, nó được gắn liền với rất nhiều tài sản mà không thể thực sự trả nợ, vì thế tăng trưởng sẽ chậm lại. Ngày hôm nay, Trung Quốc có một lượng lớn các nghĩa vụ tài chính mà nền kinh tế thật sự không thể thanh toán nổi. Khi nợ tăng trưởng ở một tốc độ nhanh hơn nhiều so với GDP danh nghĩa trong một số năm, điều đó là không bền vững và cuối cùng nó sẽ kết thúc. Có vẻ như Trung Quốc đã không còn khả năng trả các khoản nợ của mình liên quan đến các nghĩa vụ tài chính của Trung Quốc. Vấn đề hiện nay là Trung Quốc sẽ xử lý như thế nào trong tương lai”- Evan Lorenz nêu vấn đề.

Thách thức đặt ra với nền kinh tế Trung Quốc là vậy và để giải quyết vấn đề này cũng là điều không hề đơn giản. Bởi theo phân tích của Evan Lorenz, để giải quyết vấn đề này, Trung Quốc sẽ phải trải qua một cuộc khủng hoảng nợ rất lớn. Mà điều này sẽ làm tăng các khoản nợ không hiệu quả gắn liền với nhiều hơn nữa các sản phẩm không có hiệu quả.

(Còn tiếp)

Hải Anh

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 80,000 ▲200K 82,000 ▲200K
AVPL/SJC HCM 80,000 ▲200K 82,000 ▲200K
AVPL/SJC ĐN 80,000 ▲200K 82,000 ▲200K
Nguyên liệu 9999 - HN 79,250 ▲1200K 79,350 ▲1200K
Nguyên liệu 999 - HN 79,150 ▲1200K 79,250 ▲1200K
AVPL/SJC Cần Thơ 80,000 ▲200K 82,000 ▲200K
Cập nhật: 20/09/2024 23:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 79.300 ▲1200K 80.350 ▲1150K
TPHCM - SJC 80.000 ▲200K 82.000 ▲200K
Hà Nội - PNJ 79.300 ▲1200K 80.350 ▲1150K
Hà Nội - SJC 80.000 ▲200K 82.000 ▲200K
Đà Nẵng - PNJ 79.300 ▲1200K 80.350 ▲1150K
Đà Nẵng - SJC 80.000 ▲200K 82.000 ▲200K
Miền Tây - PNJ 79.300 ▲1200K 80.350 ▲1150K
Miền Tây - SJC 80.000 ▲200K 82.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 79.300 ▲1200K 80.350 ▲1150K
Giá vàng nữ trang - SJC 80.000 ▲200K 82.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 79.300 ▲1200K
Giá vàng nữ trang - SJC 80.000 ▲200K 82.000 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 79.300 ▲1200K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 79.100 ▲1100K 79.900 ▲1100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 79.020 ▲1100K 79.820 ▲1100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 78.200 ▲1090K 79.200 ▲1090K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 72.790 ▲1010K 73.290 ▲1010K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 58.680 ▲830K 60.080 ▲830K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 53.080 ▲750K 54.480 ▲750K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 50.690 ▲720K 52.090 ▲720K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 47.490 ▲670K 48.890 ▲670K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 45.490 ▲640K 46.890 ▲640K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 31.990 ▲460K 33.390 ▲460K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.710 ▲410K 30.110 ▲410K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 25.120 ▲370K 26.520 ▲370K
Cập nhật: 20/09/2024 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,815 ▲110K 7,990 ▲100K
Trang sức 99.9 7,805 ▲110K 7,980 ▲100K
NL 99.99 7,820 ▲110K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,820 ▲110K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,920 ▲110K 8,030 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,920 ▲110K 8,030 ▲100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,920 ▲110K 8,030 ▲100K
Miếng SJC Thái Bình 8,000 ▲20K 8,200 ▲20K
Miếng SJC Nghệ An 8,000 ▲20K 8,200 ▲20K
Miếng SJC Hà Nội 8,000 ▲20K 8,200 ▲20K
Cập nhật: 20/09/2024 23:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 80,000 ▲200K 82,000 ▲200K
SJC 5c 80,000 ▲200K 82,020 ▲200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 80,000 ▲200K 82,030 ▲200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 78,700 ▲800K 80,000 ▲800K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 78,700 ▲800K 80,100 ▲800K
Nữ Trang 99.99% 78,600 ▲800K 79,600 ▲800K
Nữ Trang 99% 76,812 ▲792K 78,812 ▲792K
Nữ Trang 68% 51,783 ▲544K 54,283 ▲544K
Nữ Trang 41.7% 30,847 ▲334K 33,347 ▲334K
Cập nhật: 20/09/2024 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,300.70 16,465.35 16,994.48
CAD 17,643.18 17,821.39 18,394.10
CHF 28,247.40 28,532.73 29,449.65
CNY 3,410.85 3,445.30 3,556.55
DKK - 3,607.25 3,745.58
EUR 26,712.18 26,982.00 28,178.34
GBP 31,842.50 32,164.15 33,197.77
HKD 3,073.10 3,104.15 3,203.90
INR - 293.34 305.08
JPY 165.11 166.78 174.72
KRW 15.91 17.68 19.18
KWD - 80,331.14 83,547.10
MYR - 5,794.26 5,920.95
NOK - 2,294.09 2,391.61
RUB - 252.36 279.38
SAR - 6,529.42 6,790.82
SEK - 2,367.28 2,467.92
SGD 18,532.10 18,719.29 19,320.85
THB 656.12 729.02 756.98
USD 24,370.00 24,400.00 24,740.00
Cập nhật: 20/09/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,350.00 24,360.00 24,700.00
EUR 26,845.00 26,953.00 28,070.00
GBP 31,985.00 32,113.00 33,104.00
HKD 3,085.00 3,097.00 3,202.00
CHF 28,426.00 28,540.00 29,435.00
JPY 168.14 168.82 176.56
AUD 16,407.00 16,473.00 16,982.00
SGD 18,662.00 18,737.00 19,295.00
THB 721.00 724.00 757.00
CAD 17,748.00 17,819.00 18,364.00
NZD 15,058.00 15,565.00
KRW 17.65 19.49
Cập nhật: 20/09/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24400 24400 24740
AUD 16443 16493 17103
CAD 17818 17868 18427
CHF 28639 28739 29342
CNY 0 3452.2 0
CZK 0 1044 0
DKK 0 3663 0
EUR 27101 27151 27954
GBP 32346 32396 33148
HKD 0 3155 0
JPY 167.98 168.48 174.99
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.023 0
MYR 0 5974 0
NOK 0 2317 0
NZD 0 15128 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2405 0
SGD 18733 18783 19445
THB 0 703.9 0
TWD 0 768 0
XAU 8000000 8000000 8200000
XBJ 7400000 7400000 7800000
Cập nhật: 20/09/2024 23:00