Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Thế giới tranh giành nguồn khí đốt

13:16 | 24/05/2011

439 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo Cơ quan năng lượng quốc tế, nhu cầu của nhân loại về khí đốt tăng thêm 44% trong 25 năm sắp tới. Dự báo đến năm 2017, châu Âu sẽ cần đến các nguồn khai thác dầu khí mới.

Trong chưa đầy 10 năm nữa, châu Âu có nguy cơ bị thiếu khí đốt. Đó là hậu quả của nhiều dự án đầu tư bị đình hoãn, những sai lầm trong chiến lược năng lượng, dự trữ tại Bắc Hải đang cạn dần trong lúc nhu cầu của các nền kinh tế đang lên – đứng đầu là Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil – ngày càng lớn. Kèm theo đó các quốc gia này đã có phương tiện dồi dào – về mặt tài chính cũng như trọng lượng chính trị – để trở thành những khách hàng hấp dẫn của các nước sản xuất khí đốt như Nga hay nhiều nước ở Trung Á.

Theo Cơ quan năng lượng quốc tế, nhu cầu của nhân loại về khí đốt tăng thêm 44% trong 25 năm sắp tới. Dự báo đến năm 2017, châu Âu sẽ cần đến các nguồn khai thác dầu khí mới. Mối đe dọa lớn nhất của châu Âu có lẽ xuất phát từ Trung Quốc: đất nước rộng lớn với gần 1.5 tỉ người này hiện đang tiêu thụ một khối lượng tương đương với nhu cầu của hai nước công nghiệp phát triển lâu đời của châu Âu là Anh và Đức. Đáng quan ngại hơn, là chỉ trong một thập niên tới, nhu cầu tiêu thụ của Trung Quốc còn tăng lên gấp 4 lần so với hiện nay. Theo báo cáo mới nhất về tình hình năng lượng thế giới 2010, cơ quan năng lượng quốc tế lưu ý: đến năm 2035, Trung Quốc thu hút 1/5 nhu cầu khí đốt của nhân loại, qua mặt Mỹ để trở thành nguồn thu hút khí đốt số 1 thế giới.

Khánh thành đường ống dẫn khí đốt nối liền Trung Quốc với Turkmenistan.

Để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn đó, chiến lược phát triển của Bắc Kinh đã hướng tới rất nhiều đối tác từ Qatar đến Australia. Với tập đoàn Gaz de France Suez, ông khổng lồ Trung Quốc CNOOC vừa thương lượng để công ty Pháp bán 2,6 triệu tấn khí đốt hóa lỏng LNG trong 4 năm từ 2013 đến 2016. Một vùng đất khác trong tầm ngắm của Trung Quốc là các nước sản xuất khí đốt tại Trung Á: vào tháng 12-2009 Chủ tịch Hồ Cẩm Đào mở van khánh thành đường ống dẫn khí đốt dài 7.000 km, nối liền Trung Quốc với Turkmenistan, xuyên ngang lãnh thổ Uzbekistan và Kazakhstan. Trên nguyên tắc một khi đi vào hoạt động kể từ năm 2012, mỗi năm Turkmenistan sẽ cung cấp 40 tỉ mét khối khí đốt cho Trung Quốc. Trong vòng công du Trung Á tháng 6-2010, chủ tịch Trung Quốc đã ký hàng loạt hợp đồng với các đối tác tại khu vực từ Uzbekistan đến Kazakhstan: trước hết với Uzbekistan, quốc gia sản xuất đến 60 tỉ mét khối khí đốt/năm trong đó 10 tỉ mét khối được dành cho khách hàng Trung Quốc. Hiện tại đã có hơn 300 cơ sở của Trung Quốc hiện diện tại đây trong nhiều lĩnh vực từ xây dựng, đường sắt đến viễn thông, nông nghiệp… 20% sản lượng dầu khí của Kazakhstan, tương đương với 8 triệu m3 được dành để cung cấp cho Trung Quốc và theo lời Tổng thống Nazarbayev thì Astana đã “mời” các đối tác Trung Quốc cùng hùn vốn với tập đoàn dầu khí quốc gia để cùng khai thác và sản xuất lượng dầu khí nói trên.

Trong một chừng mực nào đó có thể nói Kazackhstan là “cánh cổng” đưa Trung Quốc vào thị trường năng lượng Trung Á: năm 1997 Trung Quốc đã đẩy mạnh mối quan hệ chiến lược với Kazakhstan qua thỏa thuận xây dựng đường ống dẫn dầu 3.000 km. Đến năm 2005 tập đoàn dầu khí quốc gia CNPC lại rót gần 4 tỉ USD cho PetroKazakhstan và như vậy kiểm soát 38% vốn của tập đoàn này. Bước kế tiếp Trung Quốc chi ra 2 tỉ USD (năm 2006) để làm chủ một phần khu khai thách dầu hỏa và khí đốt Karazhanba; mua khí đốt của Turkmenistan, tham gia vào việc khai thác khu South Iolotan, nơi được coi là 1 trong 5 vựa dầu khí tiềm năng nhất thế giới, và nhắm luôn tới nguồn khai thác của Uzbekistan.

Trong lúc Trung Quốc dùng sức mạnh của đồng tiền để thuyết phục các nhà cung cấp Trung Á thì chiến lược năng lượng của châu Âu đi từ sai lầm này sang sai lầm khác. Tiêu biểu nhất cho tính toán sai lầm này là dự án xây dựng đường ống Nabucco 3.300km để đưa khí đốt từ vùng biển Caspi sang châu Âu. Dự án đã được khởi động từ năm 2002 nhưng vẫn trong tình trạng bế tắc. Nabucco là một đề án lớn, trị giá chừng 8 tỉ euro, được thực hiện bởi sự đầu tư của các hãng tư nhân với sự ủng hộ của EU. Hệ đường ống khí đốt Nabucco sử dụng các nguồn khí đốt từ vùng vịnh Caspi và Cận Đông, Trung Á (các nước Azerbaijan, Turkmenistan và Iran), tránh Nga và Ukraina, đến Eruzun (phía Đông Thổ Nhĩ Kỳ) và từ đó qua vùng Balkans, xuyên qua Bulgari, Romani và Hungary và dừng ở Áo.

Nabucco được khởi thảo với mục đích giảm thiểu sự phụ thuộc về khí đốt với Nga và gia tăng sự an toàn năng lượng. Theo những tính toán sơ bộ, trong vòng 20 năm tới, nhu cầu khí đốt của châu Âu sẽ tăng 30%. Hiện tại, châu Âu có được nguồn khí đốt, một phần do tự sản xuất, phần khác do nhập của Algeri, nhưng chủ yếu vẫn là của Nga. Như vậy, nếu được xây dựng, Nabucco sẽ là đối thủ lớn của các hệ thống khí đốt mang tên Hải lưu của Nga, đặc biệt là Hải lưu phía Nam, được xây dựng bằng cách bỏ qua Ukraina, đưa khí đốt dưới lòng biển Đen qua Bulgaria và có tham vọng “bá chủ” khí đốt tại Tây Âu.

Đã được khởi thảo từ đầu những năm 2000, từ nhiều năm nay, Nabucco bị coi là “đề án chỉ nằm trên giấy” vì rất nhiều trở ngại về chính trị và ngoại giao – cho dù, yếu tố tài chính dường như luôn được đảm bảo ở mức độ nhất định. Là một đại dự án với sự tham gia của nhiều tập đoàn năng lượng, nhiều nước, mỗi bên tham dự đều có những đòi hỏi, yêu sách và trong mỗi thời điểm, đều có sự lừng chừng, không dứt khoát, khiến công việc chung bị ảnh hưởng. Nguồn khí đốt được sử dụng trong dự án cũng là vấn đề, vì các quốc gia vùng Trung Á luôn là tâm điểm giành giật giữa châu Âu, Nga và cả Trung Quốc.

Ở một mức độ khiêm tốn hơn, Ấn Độ cũng là một trong những mối đe dọa trực tiếp đối với châu Âu và cũng đang lao vào cuộc chạy đua để bảo đảm nguồn cung cấp khí đốt. Tháng 9-2010, Bộ trưởng Năng lượng Turkmenistan, Afghanistan, Pakistan và Ấn Độ phê chuẩn hiệp ước xây dựng đường ống dẫn khí đốt mang tên TAPI (tên gọi tắt theo tiếng Anh của bốn nước) dài 1.700 km. Dự án này cho phép đến năm 2015 Turkmenistan xuất khẩu 33 tỉ mét khối/năm qua Ấn Độ và Pakistan. Nhờ đó, Achgabat không còn lệ thuộc vào những khách hàng lớn như Nga Trung Quốc hay Iran.

Với Ấn Độ, khí đốt Turkmenistan giúp cho cường quốc kinh tế thứ ba này của châu Á đạt mục tiêu tăng trưởng 8,5% một năm. Theo giới chuyên gia trong thập niên tới, nhu cầu năng lượng, bao gồm dầu khí, than đá và khí đốt của Ấn Độ tăng 40% so với hiện tại. Ngoài ra, Ấn Độ đã nhắm tới các nguồn dự trữ của nhiều nước châu Phi như Angola, Nigeria. Nhưng Ấn Độ không thể sánh kịp với Trung Quốc.

Ngoài trở ngại phải đọ sức với khối các quốc gia đang trỗi dậy để mở rộng tầm ảnh hưởng tại khu vực Trung Á giàu tài nguyên, EU còn vướng phải một số sai lầm chiến lược khác: hiện nay nhiều công trình đầu tư dài hạn của châu Âu tại vùng biển Barents gần Bắc cực đang bị chậm trễ. Theo giới chuyên gia, châu Âu sẽ phải mất nhiều năm để khởi động trở lại các dự án đầu tư đã bị bỏ dở sau một thời gian sản xuất dư thừa. Vấn đề đặt ra là trong ngành dầu khí, để một dự án bắt đầu đem lại thành quả thì cần ít nhất là trên 3 năm và đó là những dự án đầu tư rất tốn kém.

Trong bối cảnh nhiều quốc gia sản xuất như Peru, Qatar hay Indonesia dành ưu tiên để bảo đảm cung cấp cho thị trường nội địa, dự trữ tại vùng Bắc Hải cạn dần, các đề án mới tại khu vực biển Barents bị chậm trễ, Trung Á đang chịu ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc bên cạnh đối tác truyền thống là Nga, nhu cầu ngày càng lớn của các nền kinh tế đang trỗi dậy, chủ yếu là Trung Quốc và Ấn Độ, hồ sơ khí đốt càng khiến châu Âu đau đầu khi biết rằng trong 10 năm tới nhu cầu của EU tăng thêm 200 tỉ mét khối so với hiện tại.

Giang Khuê