Đánh giá an ninh khí đốt toàn cầu từ nay đến hết năm 2024
Một tàu chở LNG. Ảnh AFP |
Thị trường vẫn nhạy cảm với các động thái bất ngờ về phía cung hoặc cầu. Các hạn chế về vận chuyển LNG đã xuất hiện trên khắp Kênh đào Panama và Biển Đỏ vào năm 2024. Mặc dù điều này không dẫn đến sự suy giảm nguồn cung LNG, nhưng nó cho thấy những điểm yếu tiềm ẩn của thương mại LNG trong thị trường khí đốt toàn cầu ngày càng liên kết chặt chẽ.
Các nhà khai thác và người tiêu dùng có trách nhiệm sẽ cần phải hợp tác với nhau để củng cố cấu trúc đảm bảo nguồn cung khí đốt toàn cầu trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị gia tăng. Các cơ chế linh hoạt dọc theo chuỗi giá trị khí đốt và LNG có thể được tăng cường bằng cách cải thiện tính thanh khoản của thị trường LNG toàn cầu, tích hợp hệ thống lưu trữ khí đốt của Ukraine vào thị trường khí đốt toàn cầu và xem xét các khuôn khổ tiềm năng cho các cơ chế dự trữ khí đốt tự nguyện.
Nhu cầu khí đốt toàn cầu
Dữ liệu sơ bộ cho thấy mức tiêu thụ khí đốt đã tăng 2,8% so với cùng kỳ năm ngoái trong ba quý đầu năm 2024 (quý I-III/2024), cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng trung bình 2% từ năm 2010 đến năm 2020. Các thị trường phát triển nhanh của châu Á chiếm phần lớn mức tăng trưởng này.
Các ước tính đầu tiên cho thấy, nhu cầu khí đốt đã giảm xuống dưới 2% trong quý III năm 2024 tại các thị trường được đề cập trong báo cáo này. Một phần nguyên nhân là do sự phục hồi dần của nhu cầu, vốn đã bắt đầu từ nửa cuối năm 2023. Giá khí đốt cao hơn cũng góp phần làm chậm tốc độ tăng trưởng nhu cầu trong quý III năm 2024.
Trong cả năm 2024, nhu cầu khí đốt toàn cầu dự báo sẽ tăng hơn 2,5% (hoặc chỉ hơn 100 bcm) và đạt mức cao kỷ lục mới là 4.200 tỷ mét khối (bcm). Khu vực châu Á - Thái Bình Dương dự báo sẽ chiếm gần 45% nhu cầu khí đốt toàn cầu gia tăng. Nhu cầu từ các ngành công nghiệp và tiêu thụ năng lượng của chính họ nổi lên như động lực chính, dự báo sẽ đóng góp hơn một nửa mức tăng trưởng nhu cầu. Điều này một phần được hỗ trợ bởi sự mở rộng kinh tế liên tục tại các thị trường châu Á đang phát triển nhanh.
Sự phục hồi nhu cầu khí đốt công nghiệp của châu Âu cũng góp phần, mặc dù vẫn thấp hơn nhiều so với mức trước khủng hoảng. Nhu cầu khí đốt toàn cầu dự báo sẽ tăng thêm 2,3% (hoặc gần 100 bcm) vào năm 2025. Tương tự như năm 2024, sự tăng trưởng này phần lớn được hỗ trợ bởi châu Á, nơi dự báo sẽ chiếm hơn một nửa nhu cầu khí đốt gia tăng.
Nguồn cung khí đốt
Tăng trưởng nguồn cung LNG toàn cầu vẫn yếu trong quý I-III/2024, chỉ tăng 2% (hoặc 7 bcm) so với cùng kỳ năm trước. Con số này thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng trung bình hàng năm là 8% trong giai đoạn 2016-2020. Sự chậm trễ trong các dự án cùng với các vấn đề về cung cấp khí đốt tại một số nhà khai thác lâu đời (bao gồm ở Angola, Ai Cập, Trinidad và Tobago) đã ảnh hưởng đến tăng trưởng sản lượng LNG.
Việc các nhà máy xuất khẩu LNG Plaquemines tại Mỹ và Tortue FLNG ngoài khơi Tây Phi bắt đầu đi vào hoạt động dự kiến sẽ cải thiện nguồn cung LNG trong quý IV năm 2024. Trong cả năm 2024, nguồn cung LNG toàn cầu dự báo sẽ tăng 2% (hoặc 10 bcm) - tốc độ tăng trưởng chậm nhất kể từ năm 2020.
Tăng trưởng nguồn cung LNG dự báo sẽ tăng tốc lên gần 6% (hoặc 30 bcm) vào năm 2025 khi một số dự án LNG lớn đi vào hoạt động. Bắc Mỹ ước tính sẽ chiếm khoảng 85% nguồn cung LNG gia tăng toàn cầu vào năm 2025, với gần 3/4 (16 bcm) trong số này đến từ Mỹ.
Châu Phi và châu Á cũng được kỳ vọng sẽ đóng góp vào tăng trưởng nguồn cung LNG vào năm 2025. Dự án Arctic LNG 2 của Nga không được coi là nguồn cung LNG vững chắc trong dự báo hiện tại, xét đến môi trường trừng phạt rộng hơn.
Một rủi ro lớn trước mùa đông 2024-2025 là tương lai của vận chuyển khí đốt Nga qua Ukraine, vì hợp đồng vận chuyển khí đốt của Nga với Ukraine sẽ hết hạn vào cuối năm 2024. Dự báo này giả định không có giao hàng khí đốt bằng đường ống của Nga qua Ukraine đến châu Âu từ tháng 1/2025.
Một số chuyên gia chỉ ra rằng, việc dừng quá cảnh của Ukraine sẽ không gây ra rủi ro an ninh nguồn cung ngay lập tức cho Áo, Hungary và Slovakia, do các nước này có đủ sức chứa kho lưu trữ, kết nối trung gian tốt và khả năng tiếp cận gián tiếp vào thị trường LNG toàn cầu.
Tuy nhiên, mức độ dễ bị tổn thương của Moldova lớn hơn đáng kể, sẽ đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa Moldova và các đối tác khu vực và quốc tế để đảm bảo an ninh nguồn cung năng lượng trong suốt mùa đông. Việc chấm dứt quá cảnh của Ukraine sẽ làm giảm nguồn cung cấp khí đốt qua đường ống của Nga tới châu Âu khoảng 15 bcm so với năm 2024. Điều này có thể yêu cầu châu Âu nhập khẩu LNG cao hơn vào năm 2025 và do đó dẫn đến cán cân khí đốt toàn cầu thắt chặt hơn.
Thị trường LNG
Kể từ khi leo thang xung đột Nga - Ukraine, hơn 150 bcm công suất hóa lỏng LNG mỗi năm đã được phê duyệt. Riêng Mỹ chiếm 75% công suất hóa lỏng được phê duyệt trong giai đoạn 2022-2023. Động lực mạnh mẽ đằng sau sự phát triển của các dự án LNG vẫn tiếp tục trong quý I-III/2024, với hơn 45 bcm công suất hóa lỏng LNG mỗi năm được phê duyệt, bao gồm dự án North Field West của Qatar.
Ngược lại, không có dự án LNG nào của Mỹ đạt được quyết định đầu tư cuối cùng (FID) kể từ tháng 1/2024, sau khi áp dụng lệnh tạm dừng đối với các quyết định xuất khẩu LNG tới các quốc gia không có thỏa thuận thương mại tự do với Mỹ. Trung Đông là động lực thúc đẩy việc phê duyệt các dự án LNG trên toàn cầu vào năm 2024, dẫn đầu là Qatar, UAE và Oman.
Cùng với các dự án mở rộng của Qatar, các nhà máy hóa lỏng LNG đã đạt được quyết định đầu tư tài chính hoặc đang được xây dựng sẽ bổ sung thêm hơn 270 bcm công suất xuất khẩu mỗi năm vào cuối năm 2030. Sự gia tăng mạnh mẽ về công suất khai thác LNG này có thể nới lỏng các nguyên tắc cơ bản của thị trường và làm dịu bớt những lo ngại về an ninh nguồn cung khí đốt trong nửa cuối thập kỷ này.
Hoạt động ký hợp đồng LNG kể từ năm 2023 đã cho thấy xu hướng thiên về các hợp đồng dài hạn, cố định theo điểm đến. Các thỏa thuận có thời hạn ít nhất 10 năm chiếm 85% khối lượng được ký kết kể từ đầu năm 2023. Các thỏa thuận cố định theo điểm đến đã lấy lại sức hút và chiếm hơn 70% khối lượng được ký kết kể từ năm 2023. Các hợp đồng lớn (trên 4 bcm mỗi năm) chiếm 57% khối lượng được ký kết vào năm 2023, chiếm tỷ trọng lớn nhất kể từ năm 2017. Tỷ trọng của chúng đã giảm xuống còn 39% vào năm 2024, nhưng vẫn cao hơn nhiều so với mức trung bình của 5 năm qua.
Lệnh trừng phạt của Mỹ đối với LNG của Nga đe dọa an ninh khí đốt của Nhật Bản |
Nh.Thạch
AFP
-
Đức ký kết hợp đồng mua khí đốt tự nhiên của Mỹ trong 10 năm
-
Chủ tịch HĐQT Shinec: Kinh doanh tín chỉ carbon như "bán đàn vịt giời"
-
Thiếu hụt khung pháp lý - Rào cản giảm tốc hình thành thị trường carbon
-
Những sự kiện nổi bật trên Thị trường Năng lượng Quốc tế tuần từ 21/10 - 26/10
-
Giá dầu hôm nay (26/10): Dầu thô tiếp đà tăng