Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Ngân hàng nhà nước

Tăng cường giám sát cam kết giảm lãi suất

13:00 | 06/09/2021

203 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Từ nay đến cuối năm, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ tăng cường giám sát việc giảm lãi suất theo sự đồng thuận đã được công bố của các ngân hàng thương mại (NHTM). Đó là khẳng định của Phó thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú khi trao đổi với phóng viên Tạp chí Năng lượng Mới.

PV: Được biết, vừa qua 16 NHTM đã đồng thuận cam kết giảm lãi suất chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19. Vậy NHNN sẽ tăng cường giám sát việc thực hiện các cam kết của các NHTM như thế nào, thưa ông?

Tăng cường giám sát cam kết giảm lãi suất
Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú

Phó thống đốc Đào Minh Tú: Ngoài việc cơ cấu lại khoản nợ, khoản lãi đến hạn và không chuyển nhóm nợ, việc hạ lãi suất, giảm lãi suất cho vay là một trong những giải pháp thiết thực nhất, cụ thể nhất đối với doanh nghiệp lúc này.

Từ khi dịch Covid-19 bùng phát đến nay, theo thống kê sơ bộ, tính chung tất cả các khoản đã giảm lãi trực tiếp, gián tiếp cho những khoản vay cũ hay khoản vay mới, tổng số khoản lãi đã giảm cho doanh nghiệp khoảng 18.830 tỉ đồng.

Mới đây, theo định hướng và chỉ đạo của NHNN, Hiệp hội Ngân hàng đã tổ chức 16 NHTM họp và thống nhất tự nguyện cam kết các giải pháp hỗ trợ nền kinh tế với lãi vay sẽ được giảm khoảng 20.300 tỉ đồng từ nay đến cuối năm, tùy quy mô NHTM. Riêng Vietcombank, VietinBank, Agribank, BIDV đã phát huy vai trò tiên phong, ngoài gói hỗ trợ chung, mỗi ngân hàng còn cam kết bỏ thêm khoảng 1.000 tỉ đồng hỗ trợ giảm thêm lãi suất cho doanh nghiệp, người dân ở TP Hồ Chí Minh, Bình Dương và các địa phương gặp khó khăn nhất do dịch Covid-19 đang phải thực hiện giãn cách theo Chỉ thị 16/CT-TTg. 4 NHTM này cũng sẽ miễn 100% tất cả các loại phí dịch vụ ngân hàng cho các địa phương bị ảnh hưởng nặng như TP Hồ Chí Minh, Bình Dương...

Đáng chú ý, lần này NHNN sẽ tăng cường giám sát việc thực hiện các cam kết giảm lãi suất, giảm được bao nhiêu, giảm thế nào, để có sự hỗ trợ thực chất. Các NHTM phải thường xuyên báo cáo kết quả triển khai các giải pháp hỗ trợ như đã tự nguyện cam kết, để thực hiện đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ nền kinh tế trong bối cảnh khó khăn hiện nay.

Bên cạnh giảm lãi suất, NHNN đã và đang chỉ đạo các NHTM triển khai giảm các loại phí thanh toán, chuyển tiền, dịch vụ tiền tệ tín dụng khác cho doanh nghiệp. Ước tính tổng số phí mà các NHTM giảm cho khách hàng trong thời gian vừa qua khoảng 1.100 tỉ đồng. Thời gian tới, NHNN chỉ đạo các tổ chức trung gian thanh toán tiếp tục giảm phí tạo thuận lợi cho các NHTM giảm sâu các loại phí cho khách hàng.

Tăng cường giám sát cam kết giảm lãi suất
Khách hàng giao dịch tại Vietinbank

PV: Vừa qua có một số đề xuất giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc hay lãi suất điều hành, tạo điều kiện cho NHTM có thêm nguồn lực hỗ trợ người dân, doanh nghiệp. Quan điểm của NHNN đối với vấn đề này như thế nào?

Phó thống đốc Đào Minh Tú: NHNN luôn cân nhắc và tính toán khi nào điều kiện chín muồi để giảm lãi suất điều hành hay có sự điều chỉnh mức độ đối với các công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Bởi quyết định thay đổi, điều chỉnh không phải theo ý chí chủ quan của nhà điều hành mà phụ thuộc vào tính khách quan cần thiết của nền kinh tế. Để đưa ra mức độ điều chỉnh, thời điểm điều chỉnh phải được tính toán dựa trên thực tiễn, trước hết phải bảo đảm được mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, ổn định kinh tế vĩ mô, hài hòa lợi ích doanh nghiệp, người dân, bảo đảm an toàn hoạt động của ngân hàng để bảo đảm sự ổn định tài chính của quốc gia trong ngắn hạn, trung hạn.

Trong năm 2020, NHNN đã 3 lần thực hiện giảm lãi suất điều hành. Đến thời điểm hiện nay, nhìn chung mặt bằng lãi suất huy động, cho vay của các NHTM vẫn đang ổn định, lãi suất thị trường cũng cơ bản ổn định.

Hơn nữa, qua phân tích diễn biến thị trường, NHNN nhận thấy, vốn khả dụng các NHTM khá dồi dào, lãi suất thị trường liên ngân hàng thấp, cầu tín dụng của nền kinh tế không cao trong thời điểm dịch bệnh bùng phát mạnh và nhiều địa phương đang thực hiện giãn cách. Do đó, việc giảm lãi suất điều hành hoặc điều chỉnh các công cụ khác của chính sách tiền tệ chưa phải là giải pháp thích hợp trong thời điểm hiện nay.

Tuy nhiên, với chức năng của mình, NHNN vẫn đang theo dõi chặt các diễn biến để có các công cụ hữu hiệu, vận dụng và điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ tại các thời điểm khác nhau của nền kinh tế để góp phần bảo đảm mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô.

PV: Một trong những điều đáng quan tâm là gói hỗ trợ an sinh xã hội 26 nghìn tỉ đồng đang gặp nhiều khó khăn. Phó thống đốc có thể cho biết ngành ngân hàng đã tham gia triển khai gói hỗ trợ này như thế nào?

Phó thống đốc Đào Minh Tú: Rút kinh nghiệm từ gói hỗ trợ 62 nghìn tỉ đồng, gói hỗ trợ 26 nghìn tỉ đồng đã đi vào cuộc sống khẩn trương hơn và giải ngân khá tích cực. Ở góc độ của ngành ngân hàng, NHNN theo dõi chặt chẽ, chỉ đạo và phối hợp Ngân hàng Chính sách xã hội triển khai quyết liệt với tinh thần vướng mắc đâu tháo gỡ đó. Từ khi hoàn thiện cơ chế của khoản tái cấp vốn 7.500 tỉ đồng lãi suất 0% cho Ngân hàng Chính sách xã hội để làm nguồn vốn cho vay, đến nay, sau 2 tuần, Ngân hàng Chính sách xã hội đã giải ngân được gần 150 tỉ đồng.

Tuy nhiên, do đây là chính sách ưu tiên, ưu đãi vẫn phải bảo đảm nguyên tắc tránh lợi dụng chính sách, do đó, NHNN rất mong có sự phối hợp của các bộ, ngành, đặc biệt là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và chính quyền địa phương nơi trực tiếp quản lý doanh nghiệp, hỗ trợ Ngân hàng Chính sách xã hội tích cực triển khai chính sách trả lương người lao động do ngừng việc bởi dịch bệnh để giải ngân đúng đối tượng, hiệu quả.

PV: Trân trọng cảm ơn Phó thống đốc!

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 80,000 82,000
AVPL/SJC HCM 80,000 82,000
AVPL/SJC ĐN 80,000 82,000
Nguyên liệu 9999 - HN 79,250 79,350
Nguyên liệu 999 - HN 79,150 79,250
AVPL/SJC Cần Thơ 80,000 82,000
Cập nhật: 21/09/2024 07:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 79.300 80.350
TPHCM - SJC 80.000 82.000
Hà Nội - PNJ 79.300 80.350
Hà Nội - SJC 80.000 82.000
Đà Nẵng - PNJ 79.300 80.350
Đà Nẵng - SJC 80.000 82.000
Miền Tây - PNJ 79.300 80.350
Miền Tây - SJC 80.000 82.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 79.300 80.350
Giá vàng nữ trang - SJC 80.000 82.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 79.300
Giá vàng nữ trang - SJC 80.000 82.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 79.300
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 79.100 79.900
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 79.020 79.820
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 78.200 79.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 72.790 73.290
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 58.680 60.080
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 53.080 54.480
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 50.690 52.090
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 47.490 48.890
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 45.490 46.890
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 31.990 33.390
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.710 30.110
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 25.120 26.520
Cập nhật: 21/09/2024 07:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,815 7,990
Trang sức 99.9 7,805 7,980
NL 99.99 7,820
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,820
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,920 8,030
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,920 8,030
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,920 8,030
Miếng SJC Thái Bình 8,000 8,200
Miếng SJC Nghệ An 8,000 8,200
Miếng SJC Hà Nội 8,000 8,200
Cập nhật: 21/09/2024 07:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 80,000 82,000
SJC 5c 80,000 82,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 80,000 82,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 78,700 80,000
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 78,700 80,100
Nữ Trang 99.99% 78,600 79,600
Nữ Trang 99% 76,812 78,812
Nữ Trang 68% 51,783 54,283
Nữ Trang 41.7% 30,847 33,347
Cập nhật: 21/09/2024 07:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,300.70 16,465.35 16,994.48
CAD 17,643.18 17,821.39 18,394.10
CHF 28,247.40 28,532.73 29,449.65
CNY 3,410.85 3,445.30 3,556.55
DKK - 3,607.25 3,745.58
EUR 26,712.18 26,982.00 28,178.34
GBP 31,842.50 32,164.15 33,197.77
HKD 3,073.10 3,104.15 3,203.90
INR - 293.34 305.08
JPY 165.11 166.78 174.72
KRW 15.91 17.68 19.18
KWD - 80,331.14 83,547.10
MYR - 5,794.26 5,920.95
NOK - 2,294.09 2,391.61
RUB - 252.36 279.38
SAR - 6,529.42 6,790.82
SEK - 2,367.28 2,467.92
SGD 18,532.10 18,719.29 19,320.85
THB 656.12 729.02 756.98
USD 24,370.00 24,400.00 24,740.00
Cập nhật: 21/09/2024 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,350.00 24,360.00 24,700.00
EUR 26,845.00 26,953.00 28,070.00
GBP 31,985.00 32,113.00 33,104.00
HKD 3,085.00 3,097.00 3,202.00
CHF 28,426.00 28,540.00 29,435.00
JPY 168.14 168.82 176.56
AUD 16,407.00 16,473.00 16,982.00
SGD 18,662.00 18,737.00 19,295.00
THB 721.00 724.00 757.00
CAD 17,748.00 17,819.00 18,364.00
NZD 15,058.00 15,565.00
KRW 17.65 19.49
Cập nhật: 21/09/2024 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24400 24400 24740
AUD 16443 16493 17103
CAD 17818 17868 18427
CHF 28639 28739 29342
CNY 0 3452.2 0
CZK 0 1044 0
DKK 0 3663 0
EUR 27101 27151 27954
GBP 32346 32396 33148
HKD 0 3155 0
JPY 167.98 168.48 174.99
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.023 0
MYR 0 5974 0
NOK 0 2317 0
NZD 0 15128 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2405 0
SGD 18733 18783 19445
THB 0 703.9 0
TWD 0 768 0
XAU 8000000 8000000 8200000
XBJ 7400000 7400000 7800000
Cập nhật: 21/09/2024 07:00