Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Sự sụp đổ của giá dầu đã cho mảng đá phiến của Mỹ một bài học

09:25 | 07/12/2021

5,727 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Ngành công nghiệp đá phiến của Mỹ đã học được một số bài học quý giá từ hai đợt suy thoái giá dầu lớn gần đây nhất. Các nhà khoan đá phiến của Mỹ dự kiến ​​sẽ giữ kế hoạch chi tiêu năm 2022 trong tầm kiểm soát, trong khi mgành dầu khí của nước này vẫn cảnh giác với các chính sách về nhiên liệu hóa thạch của chính quyền Tổng thống Joe Biden.

Đợt điều chỉnh giá dầu lớn vào tháng 11 năm 2021, được coi là tháng tồi tệ nhất đối với dầu thô kể từ tháng 3 năm 2020, diễn ra ngay khi các nhà sản xuất dầu của Mỹ đang soạn thảo kế hoạch ngân sách vốn cho năm 2022.

Sự sụt giảm về giá khiến dầu thô WTI từ hơn 80 USD/thùng vào đầu tháng 11 xuống còn 67 USD/thùng vào đầu tháng 12, không quá tàn phá đối với mảng đá phiến của Mỹ như hai năm trước đây khi các nhà sản xuất đang khoan với tốc độ kỷ lục và đang đầu tư dòng tiền nhiều nhất, và thậm chí xa hơn thế, vào các giếng mới.

Sự sụp đổ của giá dầu đã cho mảng đá phiến của Mỹ một bài học

Sự sụt giảm giá hiện tại không làm nản lòng các nhà sản xuất dầu của Mỹ. Họ đang giữ các kế hoạch chi tiêu có kỷ luật và dự kiến ​​sẽ tăng ngân sách một cách thận trọng cho năm tới, lưu ý rằng biến động giá dầu vẫn tiếp diễn và mỗi biến thể mới của Covid đều có thể khiến thị trường rơi vào tình trạng bán chạy - như Omicron đã làm vào tuần trước.

Ngành công nghiệp dầu mỏ của Mỹ không vội đầu tư vào quá nhiều giàn khoan mới vì họ cũng cảnh giác với các chính sách của chính quyền của Tổng thống Joe Biden đối với dầu khí và cho biết Cơ quan quản lý kêu gọi OPEC + bơm thêm trong khi áp đặt các biện pháp hạn chế đối với hoạt động khoan trên đất liên bang của Mỹ. Các công ty dầu mỏ thậm chí còn đang bị Cơ quan quản lý khởi xướng một cuộc điều tra về việc liệu các công ty dầu mỏ có bị cáo buộc thông đồng để làm giá xăng cao nhất trong 7 năm hay không, tất cả những điều này chỉ vì lòng tham “trục lợi” và “đục khoét giá”, như các quan chức cấp cao của Mỹ và các nhà lập pháp đảng Dân chủ, chẳng hạn như Thượng nghị sĩ Elizabeth Warren, đã nói trong những tuần gần đây.

Khi giá dầu bắt đầu phục hồi trong năm nay, các nhà sản xuất dầu đá phiến đã thận trọng trong các kế hoạch tương lai của mình và không ai chi tiêu vượt quá khả năng của họ. Hoạt động khoan đã bắt đầu khởi sắc, nhưng nó được đo lường và từ từ vì các nhà sản xuất dầu tìm cách thưởng cho các cổ đông trước tiên bằng dòng tiền kỷ lục.

Một số nhà sản xuất có thể đã cảm thấy trong những ngày gần đây rằng họ đã bỏ lỡ cơ hội để thúc đẩy hoạt động khoan và sản xuất dầu ở mức 80 USD/thùng, nhà phân tích năng lượng David Blackmon lập luận trên Forbes.

Tuy nhiên, hạn chế và trả lại lợi nhuận cho cổ đông là điều đúng đắn cần làm trong năm nay, sau khi nhu cầu và giá dầu phục hồi từ đợt giảm mạnh do đại dịch gây ra vào năm 2020.

Các công ty dầu mỏ của Mỹ đã học hỏi được từ những sai lầm trong quá khứ và không hướng đến việc “chìm sâu vào quên lãng” như họ đã từng làm trước khi giá dầu sụt giảm vào năm ngoái.

Rystad Energy cho biết tỷ lệ tái đầu tư giữa các công ty tập trung vào đá phiến, không bao gồm các công ty lớn, đạt mức thấp nhất mọi thời đại trong quý 3 và dự kiến ​​sẽ tiếp tục giảm trong quý này, Rystad Energy cho biết vào tháng trước.

Công ty nghiên cứu cũng cho biết vào tháng 11: “Ngay cả khi không có các điều chỉnh tăng mạnh cho năm tới, lợi nhuận cao kỷ lục trong quý thứ ba và kỳ vọng tăng trưởng vừa phải vào năm 2022 là một sự thay đổi ấn tượng đối với tập đoàn".

Rystad Energy nhận thấy các công ty Mỹ tăng tổng chi tiêu lên 19,4% vào năm 2022 lên 83,4 tỷ USD, đây sẽ là mức cao nhất kể từ khi đại dịch bắt đầu. Công ty nghiên cứu cho biết thêm, điều này báo hiệu ngành công nghiệp đang trỗi dậy sau một thời kỳ bất ổn và biến động kéo dài.

Sự biến động trên thị trường dầu mỏ sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao khi các chuyên gia y tế và các nhà sản xuất vắc xin nghiên cứu biến thể Covid mới. Nhưng các nhà sản xuất đá phiến của Mỹ vẫn giữ vững lập trường và lập kế hoạch với sự biến động và phần thưởng cho các cổ đông.

Tuy nhiên, không chỉ sự không chắc chắn và biến động trên thị trường dầu mỏ khiến đá phiến của Mỹ thận trọng về các kế hoạch trong tương lai. Các chính sách về dầu theo kế hoạch của chính quyền Tổng thống Joe Biden, về cơ bản là làm cho dầu thô đắt hơn để sản xuất, không giúp ích gì cả.

Sau khi Hạ viện thông qua dự luật về khí hậu và xã hội của Tổng thống Biden, hiện đang được trình lên Thượng viện, Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành của Viện Dầu mỏ Mỹ (API) Mike Sommers cho biết: “Dự luật này đánh thuế năng lượng của Mỹ, hạn chế khả năng tiếp cận các nguồn tài nguyên của chúng ta và tiến bộ tương tự loại chiến lược 'nhập khẩu nhiều dầu' mà chính quyền này đã và đang thúc đẩy như một giải pháp. Chúng tôi kêu gọi Thượng viện bác bỏ những chính sách sai lầm này và tập trung vào các giải pháp khí hậu vừa giảm lượng khí thải vừa đảm bảo người Mỹ được tiếp cận với nguồn năng lượng hợp lý và đáng tin cậy mà lĩnh vực này cung cấp hàng ngày ”.

Khi chính quyền Joe Biden tăng cường kêu gọi OPEC + thúc đẩy sản xuất để giảm giá xăng dầu đang tăng cao ở Mỹ, Hội đồng Thăm dò và Sản xuất Mỹ cho biết: “Điều tồi tệ nhất mà Chính quyền có thể làm đối với giá năng lượng là hạn chế nguồn cung bằng cách thực hiện các chính sách gây khó khăn hơn sản xuất năng lượng”.

Nhóm cũng lưu ý rằng có các giải pháp trong nước để giảm giá năng lượng, bao gồm đảm bảo tiếp tục sản xuất dầu và khí đốt trên đất liền và vùng biển của liên bang, các quy định hợp lý về khí mê-tan, và không đánh thuế ngành công nghiệp nhiều hơn vì tăng phí và thuế hạn chế nguồn vốn sẵn có để đầu tư và thúc đẩy tăng chi phí.

Ngành công nghiệp đá phiến của Mỹ không hài lòng với việc Chính phủ tiếp tục tham gia với OPEC + về nguồn cung dầu, trong khi có nguồn cung dầu như vậy,và nó rất dồi dào, ở Mỹ.

“Tôi nghĩ trước hết bạn, bạn ở nhà, bạn hỏi bạn bè của bạn, và bạn yêu cầu hàng xóm của bạn làm điều đó. Và sau đó nếu chúng tôi không làm được, bạn hãy gọi cho một số quốc gia khác, ”Giám đốc điều hành của Occidental, Vicki Hollub nói với CNBC vào tháng trước.

Anh Ngọc (Nguồn: Oilprice)

Các ngân hàng tiếp tục tài trợ cho nhiên liệu hoá thạch bất chấp các cam kết về khí hậuCác ngân hàng tiếp tục tài trợ cho nhiên liệu hoá thạch bất chấp các cam kết về khí hậu
Giá vàng hôm nay 7/12: Bitcoin lao dốc, giá vàng vẫn đi ngang khi đồng USD mạnh hơnGiá vàng hôm nay 7/12: Bitcoin lao dốc, giá vàng vẫn đi ngang khi đồng USD mạnh hơn
ExxonMobil công bố kế hoạch chi tiêu và lợi nhuận đến năm 2027ExxonMobil công bố kế hoạch chi tiêu và lợi nhuận đến năm 2027
Ả Rập Xê-út tăng giá bán dầu đối với khách hàng châu Á và MỹẢ Rập Xê-út tăng giá bán dầu đối với khách hàng châu Á và Mỹ
Tin hoạt động của các công ty năng lượng trong tuần qua (29/11-5/12)Tin hoạt động của các công ty năng lượng trong tuần qua (29/11-5/12)
Cuộc chiến Cuộc chiến "vàng đen" sôi sục và sự ngập ngừng "đắt giá" của Trung Quốc
Goldman Sachs: Giá dầu vẫn có xu hướng tăng bất chấp OPEC+ bơm thêmGoldman Sachs: Giá dầu vẫn có xu hướng tăng bất chấp OPEC+ bơm thêm

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,500 80,500
AVPL/SJC HCM 78,500 80,500
AVPL/SJC ĐN 78,500 80,500
Nguyên liệu 9999 - HN 77,250 ▼150K 77,400 ▼150K
Nguyên liệu 999 - HN 77,150 ▼150K 77,300 ▼150K
AVPL/SJC Cần Thơ 78,500 80,500
Cập nhật: 09/09/2024 19:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 77.300 ▲100K 78.450 ▲50K
TPHCM - SJC 78.500 80.500
Hà Nội - PNJ 77.300 ▲100K 78.450 ▲50K
Hà Nội - SJC 78.500 80.500
Đà Nẵng - PNJ 77.300 ▲100K 78.450 ▲50K
Đà Nẵng - SJC 78.500 80.500
Miền Tây - PNJ 77.300 ▲100K 78.450 ▲50K
Miền Tây - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 77.300 ▲100K 78.450 ▲50K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 77.300 ▲100K
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 77.300 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 77.200 ▲100K 78.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 77.120 ▲100K 77.920 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 76.320 ▲100K 77.320 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 71.050 ▲90K 71.550 ▲90K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 57.250 ▲70K 58.650 ▲70K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 51.790 ▲70K 53.190 ▲70K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 49.450 ▲60K 50.850 ▲60K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 46.330 ▲60K 47.730 ▲60K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 44.380 ▲60K 45.780 ▲60K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 31.200 ▲40K 32.600 ▲40K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.000 ▲40K 29.400 ▲40K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 24.490 ▲30K 25.890 ▲30K
Cập nhật: 09/09/2024 19:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,635 ▼10K 7,810 ▼10K
Trang sức 99.9 7,625 ▼10K 7,800 ▼10K
NL 99.99 7,640 ▼10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,640 ▼10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,740 ▼10K 7,850 ▼10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,740 ▼10K 7,850 ▼10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,740 ▼10K 7,850 ▼10K
Miếng SJC Thái Bình 7,850 8,050
Miếng SJC Nghệ An 7,850 8,050
Miếng SJC Hà Nội 7,850 8,050
Cập nhật: 09/09/2024 19:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 78,500 80,500
SJC 5c 78,500 80,520
SJC 2c, 1C, 5 phân 78,500 80,530
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 77,150 ▼150K 78,450 ▼150K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 77,150 ▼150K 78,550 ▼150K
Nữ Trang 99.99% 77,050 ▼150K 78,050 ▼150K
Nữ Trang 99% 75,277 ▼149K 77,277 ▼149K
Nữ Trang 68% 50,729 ▼102K 53,229 ▼102K
Nữ Trang 41.7% 30,200 ▼63K 32,700 ▼63K
Cập nhật: 09/09/2024 19:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,016.15 16,177.93 16,697.71
CAD 17,724.19 17,903.22 18,478.43
CHF 28,389.25 28,676.01 29,597.34
CNY 3,397.24 3,431.56 3,542.35
DKK - 3,587.44 3,724.99
EUR 26,570.99 26,839.39 28,029.22
GBP 31,481.84 31,799.84 32,821.54
HKD 3,084.20 3,115.35 3,215.44
INR - 293.12 304.85
JPY 167.04 168.73 176.80
KRW 15.88 17.65 19.25
KWD - 80,552.71 83,776.99
MYR - 5,601.55 5,723.98
NOK - 2,239.71 2,334.91
RUB - 259.69 287.49
SAR - 6,554.97 6,817.34
SEK - 2,332.26 2,431.40
SGD 18,418.00 18,604.04 19,201.77
THB 642.47 713.86 741.23
USD 24,470.00 24,500.00 24,840.00
Cập nhật: 09/09/2024 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,450.00 24,460.00 24,800.00
EUR 26,723.00 26,830.00 27,947.00
GBP 31,684.00 31,811.00 32,799.00
HKD 3,096.00 3,108.00 3,212.00
CHF 28,549.00 28,664.00 29,561.00
JPY 168.00 168.67 176.55
AUD 16,109.00 16,174.00 16,679.00
SGD 18,551.00 18,626.00 19,176.00
THB 708.00 711.00 742.00
CAD 17,815.00 17,887.00 18,432.00
NZD 14,912.00 15,417.00
KRW 17.59 19.41
Cập nhật: 09/09/2024 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24520 24520 24850
AUD 16228 16278 16788
CAD 17990 18040 18499
CHF 28846 28896 29463
CNY 0 3434.3 0
CZK 0 1060 0
DKK 0 3713 0
EUR 27024 27074 27777
GBP 32053 32103 32765
HKD 0 3185 0
JPY 170.2 170.7 176.21
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.011 0
MYR 0 5887 0
NOK 0 2368 0
NZD 0 14944 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2395 0
SGD 18694 18744 19306
THB 0 686.7 0
TWD 0 772 0
XAU 7850000 7850000 8050000
XBJ 7300000 7300000 7620000
Cập nhật: 09/09/2024 19:00