Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Phát triển nông nghiệp bền vững theo phương châm “tạo ra nhiều hơn từ ít hơn”

11:00 | 09/06/2019

557 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - “Tạo ra nhiều hơn từ ít hơn nghĩa là cần ứng dụng khoa học kỹ thuật, sử dụng giống mới, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, sử dụng ít tài nguyên hơn mà vẫn tạo ra được sản phẩm có giá trị mới cao hơn” - TS. Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển Nông nghiệp Nông thôn giải thích.

Một thực tế là Việt Nam hiện có khoảng 9 triệu hộ nông dân, nhưng mỗi hộ chỉ canh tác, sản xuất khoảng 0,5ha đất. Điều này rất khó để tạo thành chuỗi liên kết sản xuất - tiêu dùng đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm.

Trong khi đó, nhu cầu của thị trường trong nước và thế giới ngày càng đòi hỏi sản phẩm nông lâm thủy sản phải có chất lượng cao hơn, không những về vệ sinh an toàn thực phẩm mà còn đảm bảo về bảo vệ môi trường.

phat trien nong nghiep ben vung theo phuong cham tao ra nhieu hon tu it hon
Cần ứng dụng khoa học kỹ thuật để tạo ra sản phẩm có giá trị mới cao hơn

Thêm vào đó, nông nghiệp Việt Nam cũng chịu nhiều tác động từ biến đổi khí hậu khiến nguồn tài nguyên ngày càng suy giảm, diện tích đất sản xuất ít đi, nguồn nước khan hiếm hơn, xâm nhập mặn, hạn hán...

Để xử lý được một loạt những vấn đề đó, đưa nông nghiệp thành động lực cho tăng trưởng kinh tế cần có những giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững theo phương châm “tạo ra nhiều hơn từ ít hơn”.

Nghĩa là cần ứng dụng khoa học kỹ thuật, sử dụng giống mới, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, sử dụng ít tài nguyên hơn mà vẫn tạo ra được sản phẩm có giá trị mới cao hơn.

Song song đó, phải chú trọng tới việc giảm tổn thất sau thu hoạch, bảo quản tốt hơn, tăng cường chế biến để nâng cao giá trị cho nông sản.

Cùng chung nhận định, ông Kimura Yoshihisa, chuyên gia JICA tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam cho rằng, thực trạng chung của sản xuất nông nghiệp Việt Nam hiện nay là sản xuất với quy mô quá nhỏ lẻ, manh mún nên năng suất thấp, giá trị gia tăng thấp.

Do đó, nông dân ít có lợi nhuận, không thể đầu tư vào trang thiết bị, máy móc phục vụ sản xuất. Bên cạnh đó, nhiều diện tích đất nông nghiệp bị tàn phá, bỏ hoang, phát sinh nhiều côn trùng gây bệnh, ảnh hưởng tới toàn bộ khu vực.

Vì vậy, để phát triển nông nghiệp bền vững, Việt Nam cần giải quyết được vấn đề nâng cao năng suất và bố trí lại đất nông nghiệp; trong đó, các thửa ruộng nhỏ lẻ cần được dồn lại và hợp nhất nhằm tạo ra hiệu ứng đồng bộ.

Dẫn chứng cụ thể trong sản xuất lúa gạo, việc sản xuất trên cánh đồng lớn có thể rút ngắn được 50% thời gian lao động, nâng quy mô sản xuất của các hộ nông dân lên gấp 2 lần và giảm được khoảng 2/3 chi phí sản xuất so với sản xuất nhỏ lẻ.

PGS.TS Mai Thành Phụng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Trang trại và Doanh nghiệp Nông nghiệp Việt Nam (VFAEA) cho biết, Nông nghiệp vùng ĐBSCL hằng năm đóng góp khoảng 27% GDP của cả nước, sản xuất hơn 50% tổng sản lượng lương thực, đóng góp hơn 90% lượng gạo xuất khẩu. Kết quả đó là nhờ nông dân tiếp cận và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, liên kết “4 nhà”, xây dựng cánh đồng lớn…

Tuy nhiên, cơ chế, chính sách, những yếu kém nội tại trong quá trình thực hiện mối liên kết “4 nhà” cũng bộc lộ nhiều hạn chế nên hiệu quả chưa như mong muốn. Theo PGS.TS Mai Thành Phụng, trong bối cảnh hiện nay, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị là yêu cầu tất yếu, góp phần nâng cao giá trị và là hướng đi bền vững.

Lý giải vì sao phải sản xuất theo chuỗi và phải truy xuất nguồn gốc, TS. Trần Quốc Nhân, Khoa Nông nghiệp Nông thôn, Trường Đại học Cần Thơ, khẳng định trước hết là do yêu cầu thị trường, nhất là thị trường quốc tế. Nếu hàng hóa không đồng nhất, không đủ số lượng lớn và không truy xuất được nguồn gốc thì các nước nhập khẩu sẽ từ chối, không mua.

Hơn nữa, việc sản xuất theo hợp đồng còn giúp nông dân tiếp cận được kỹ thuật, được nguồn vốn, còn doanh nghiệp thì phát triển được vùng nguyên liệu phục vụ chế biến, xuất khẩu.

Còn theo PGS.TS Dương Hoa Xô, Giám đốc Trung tâm Công nghệ sinh học TP HCM, sản xuất nông nghiệp ảnh hưởng rất nhiều yếu tố, từ giống, quy trình canh tác đến thời tiết, khí hậu… Do đó, mặt hàng nông sản rất khó đồng nhất, chất lượng sẽ khác nhau nếu sản xuất ở những nơi khác nhau. Nên người tiêu dùng cần truy xuất được nguồn gốc để biết rõ món hàng mình sẽ mua, sẽ ăn.

Tuy nhiên, truy xuất nguồn gốc không thể làm cho từng hộ, mà chỉ có thể làm cho một vùng sản xuất. Vì vậy, nông dân cần phải thay đổi quy trình sản xuất, liên kết sản xuất, làm theo chuỗi…

M.L

phat trien nong nghiep ben vung theo phuong cham tao ra nhieu hon tu it honNông nghiệp hiện vẫn do kinh tế hộ làm chủ đạo
phat trien nong nghiep ben vung theo phuong cham tao ra nhieu hon tu it honPhát triển nông nghiệp sạch phải gắn liền với nguồn vốn tư nhân
phat trien nong nghiep ben vung theo phuong cham tao ra nhieu hon tu it honCỏ Vetiver - chìa khóa phát triển nông nghiệp bền vững

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,800 ▼200K 81,800 ▼200K
AVPL/SJC HCM 79,800 ▼200K 81,800 ▼200K
AVPL/SJC ĐN 79,800 ▼200K 81,800 ▼200K
Nguyên liệu 9999 - HN 78,050 ▲50K 78,150
Nguyên liệu 999 - HN 77,950 ▲50K 78,050
AVPL/SJC Cần Thơ 79,800 ▼200K 81,800 ▼200K
Cập nhật: 19/09/2024 23:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 78.100 ▲100K 79.200
TPHCM - SJC 79.800 ▼200K 81.800 ▼200K
Hà Nội - PNJ 78.100 ▲100K 79.200
Hà Nội - SJC 79.800 ▼200K 81.800 ▼200K
Đà Nẵng - PNJ 78.100 ▲100K 79.200
Đà Nẵng - SJC 79.800 ▼200K 81.800 ▼200K
Miền Tây - PNJ 78.100 ▲100K 79.200
Miền Tây - SJC 79.800 ▼200K 81.800 ▼200K
Giá vàng nữ trang - PNJ 78.100 ▲100K 79.200
Giá vàng nữ trang - SJC 79.800 ▼200K 81.800 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 78.100 ▲100K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.800 ▼200K 81.800 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 78.100 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 78.000 ▲100K 78.800 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 77.920 ▲100K 78.720 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 77.110 ▲100K 78.110 ▲100K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 71.780 ▲90K 72.280 ▲90K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 57.850 ▲70K 59.250 ▲70K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 52.330 ▲60K 53.730 ▲60K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 49.970 ▲60K 51.370 ▲60K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 46.820 ▲60K 48.220 ▲60K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 44.850 ▲60K 46.250 ▲60K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 31.530 ▲40K 32.930 ▲40K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.300 ▲40K 29.700 ▲40K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 24.750 ▲30K 26.150 ▲30K
Cập nhật: 19/09/2024 23:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,705 ▲10K 7,890 ▲10K
Trang sức 99.9 7,695 ▲10K 7,880 ▲10K
NL 99.99 7,710 ▲10K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,710 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,810 ▲10K 7,930 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,810 ▲10K 7,930 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,810 ▲10K 7,930 ▲10K
Miếng SJC Thái Bình 7,980 ▼20K 8,180 ▼20K
Miếng SJC Nghệ An 7,980 ▼20K 8,180 ▼20K
Miếng SJC Hà Nội 7,980 ▼20K 8,180 ▼20K
Cập nhật: 19/09/2024 23:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,800 ▼200K 81,800 ▼200K
SJC 5c 79,800 ▼200K 81,820 ▼200K
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,800 ▼200K 81,830 ▼200K
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 77,900 79,200
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 77,900 79,300
Nữ Trang 99.99% 77,800 78,800
Nữ Trang 99% 76,020 78,020
Nữ Trang 68% 51,239 53,739
Nữ Trang 41.7% 30,513 33,013
Cập nhật: 19/09/2024 23:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,362.42 16,527.70 17,058.82
CAD 17,698.61 17,877.39 18,451.88
CHF 28,322.39 28,608.47 29,527.81
CNY 3,409.43 3,443.87 3,555.08
DKK - 3,613.58 3,752.16
EUR 26,751.80 27,022.02 28,220.11
GBP 31,793.21 32,114.35 33,146.35
HKD 3,074.16 3,105.21 3,205.00
INR - 293.04 304.77
JPY 166.03 167.71 175.70
KRW 16.03 17.81 19.33
KWD - 80,390.22 83,608.49
MYR - 5,775.97 5,902.25
NOK - 2,304.82 2,402.80
RUB - 252.32 279.34
SAR - 6,532.08 6,793.58
SEK - 2,378.70 2,479.83
SGD 18,565.51 18,753.04 19,355.67
THB 655.99 728.87 756.83
USD 24,380.00 24,410.00 24,750.00
Cập nhật: 19/09/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,420.00 24,440.00 24,780.00
EUR 26,734.00 26,841.00 27,958.00
GBP 31,799.00 31,927.00 32,917.00
HKD 3,093.00 3,105.00 3,210.00
CHF 28,397.00 28,511.00 29,402.00
JPY 167.16 167.83 175.47
AUD 16,288.00 16,353.00 16,860.00
SGD 18,596.00 18,671.00 19,224.00
THB 715.00 718.00 750.00
CAD 17,711.00 17,782.00 18,323.00
NZD 14,973.00 15,479.00
KRW 17.69 19.53
Cập nhật: 19/09/2024 23:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24410 24410 24770
AUD 16482 16532 17134
CAD 17833 17883 18443
CHF 28674 28774 29381
CNY 0 3442.9 0
CZK 0 1044 0
DKK 0 3663 0
EUR 27088 27138 27941
GBP 32256 32306 33073
HKD 0 3155 0
JPY 168.77 169.27 175.78
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.023 0
MYR 0 5974 0
NOK 0 2317 0
NZD 0 15187 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2405 0
SGD 18725 18775 19427
THB 0 701.5 0
TWD 0 768 0
XAU 7980000 7980000 8180000
XBJ 7400000 7400000 7800000
Cập nhật: 19/09/2024 23:00