Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Ô tô nhập từ Trung Quốc giảm mạnh, Bộ Công Thương giải thích ra sao?

06:35 | 09/09/2019

676 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo Bộ Công Thương, nhập khẩu ô tô từ Trung Quốc giảm mạnh do Việt Nam nhập khẩu chủ yếu từ thị trường này các loại xe tải, trong khi nhu cầu nhập khẩu xe tải giảm xuống.
Ô tô nhập từ Trung Quốc giảm mạnh, Bộ Công Thương giải thích ra sao?
Xe Trung Quốc nhập khẩu về Việt Nam đang giảm mạnh (ảnh minh họa).

Bộ Công Thương cho biết, 6 tháng đầu năm 2019, số lượng ô tô nhập khẩu tăng kỷ lục, đạt 75.438 chiếc trị giá 1,68 tỷ USD, tăng 513% về số lượng và tăng 413,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018, đạt gần mức cả năm 2018 (81.787 xe ô tô);

Về thị trường nhập khẩu xe, Bộ Công Thương cho biết, sau khi thuế nhập khẩu từ ASEAN về 0% từ đầu năm 2018, nhập khẩu từ khu vực ASEAN tăng mạnh, hiện đã chiếm đến 88,8% tổng lượng ô tô nhập khẩu cả nước.

Trong khi đó, thị trường Hàn Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản: việc nhập khẩu ô tô giảm mạnh. Nguyên nhân do Công ty Thành Công và Trường Hải không nhập xe hoặc hạn chế nhập xe Hyundai và Mazda sau khi đã liên doanh và sản xuất trong nước từ cuối năm 2017.

Lượng ô tô nguyên chiếc nhập thị trường Hoa Kỳ theo Bộ Công Thương cũng giảm mạnh do các doanh nghiệp nhập khẩu cũng đồng thời là nhà sản xuất trong nước cân đối kế hoạch sản xuất kinh doanh. Theo đó các doanh nghiệp này nâng công suất sản xuất trong nước, tăng nhập khẩu từ thị trường ASEAN để được hưởng lợi thuế ATIGA là 0% và giảm nhập khẩu từ thị trường Hoa Kỳ.

Cũng theo Bộ Công Thương, nhập khẩu ô tô từ thị trường Trung Quốc giảm rất mạnh do Việt Nam nhập khẩu chủ yếu từ thị trường này các loại xe tải, trong khi nhu cầu nhập khẩu xe tải giảm xuống.

"Hiện ô tô nhập khẩu tập trung chủ yếu vào ô tô từ 9 chỗ ngồi trở xuống, chiếm khoảng 70% tổng lượng nhập khẩu ô tô vì đây là dòng xe vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa phục vụ kinh doanh, giá thành giảm do một số loại thuế giảm (thuế nhập khẩu theo ATIGA và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với dòng xe dung tích nhỏ)", Bộ này cho hay.

Trong khi đó, đối với dòng xe tải, Bộ Công Thương cho biết việc nhập khẩu giảm mạnh về số lượng do rất nhiều nguyên nhân.

Thứ nhất, ít doanh nghiệp đăng ký cấp Giấy phép kinh doanh nhập khẩu ô tô. Thứ hai, trong nước đã sản xuất được dòng xe tải nhẹ.

Trong nước mới sản xuất một phần xe tải nặng trong khi nhu cầu nhập khẩu thấp vì thời gian qua các doanh nghiệp đã nhập khẩu số lượng lớn nhằm đáp ứng quy định về tải trọng của Bộ Giao thông vận tải.

Ngoài ra việc giảm nhập khẩu xe bán tải do tiêu thụ khó khăn hơn trước, đặc biệt tại các thành phố lớn do tăng thuế trước bạ (từ 2% lên 6-7,25%).

Đi kèm với số lượng tăng đột biến, số liệu của Cục Xuất nhập khẩu cũng cho biết, giá nhập khẩu trung bình mỗi chiếc ô tô các loại đều có xu hướng giảm ở mức hơn 4.000 USD/xe.

Cụ thể, từ mức 26.649 USD/xe xuống còn 22.275 USD/xe. Trong đó, ô tô dưới 9 chỗ ngồi giá nhập khẩu trung bình mỗi xe giảm từ mức 22.530 USD xuống còn 19.258 USD/xe.

Báo cáo với Bộ trưởng Công Thương mới đây, lãnh đạo Cục Công nghiệp cũng cho biết, dự kiến nhập siêu ngành ô tô năm nay sẽ đạt mức kỷ lục hơn 3,4 tỷ USD. Trong những năm tiếp theo, kim ngạch nhập khẩu ô tô sẽ tiếp tục tăng theo nhu cầu sử dụng ngày càng cao trong nước, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành sản xuất ô tô nội địa và cán cân thương mại.

Trước lo ngại lượng xe nhập khẩu lấn át, Cục Công nghiệp kiến nghị việc sớm ban hành các chính sách mới tập trung hỗ trợ để thúc đẩy nhanh các dự án lớn về sản xuất, lắp ráp ô tô của các doanh nghiệp lớn, thu hút đầu tư từ các Tập đoàn đa quốc gia đầu tư các dự án có quy mô lớn có kèm theo chuyển giao và làm chủ công nghệ tại Việt Nam.

Đồng thời phối hợp với các đơn vị liên quan nghiên cứu sửa đổi áp dụng mức thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng ô tô từ 9 chỗ ngồi trở xuống theo hướng không đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với phần giá trị tạo ra trong nước, với thời hạn của chính sách là từ 5-10 năm.

Mới đây, trong báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương cũng đã đưa ra hàng loạt các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho công nghiệp ô tô Việt Nam trước sức ép từ sản phẩm ngoại nhập.

Theo Dân trí

Bốn bất đồng của Mỹ - Trung trên bàn đàm phán
HLV Park Hang Seo vẫn khiêm tốn dù U22 Việt Nam vượt qua U22 Trung Quốc
HLV Guus Hiddink: “Trận thua U22 Việt Nam giúp chúng tôi học được nhiều điều”
Thương chiến căng thẳng, xuất khẩu của Trung Quốc giảm mạnh
Tương lai của Trung Quốc: Hàng loạt vấn đề “đau đầu” với Chủ tịch Tập Cận Bình

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 85,000 87,000
AVPL/SJC HCM 85,000 87,000
AVPL/SJC ĐN 85,000 87,000
Nguyên liệu 9999 - HN 85,500 85,800
Nguyên liệu 999 - HN 85,400 85,700
AVPL/SJC Cần Thơ 85,000 87,000
Cập nhật: 25/11/2024 02:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 85.500 86.800
TPHCM - SJC 85.000 87.000
Hà Nội - PNJ 85.500 86.800
Hà Nội - SJC 85.000 87.000
Đà Nẵng - PNJ 85.500 86.800
Đà Nẵng - SJC 85.000 87.000
Miền Tây - PNJ 85.500 86.800
Miền Tây - SJC 85.000 87.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 85.500 86.800
Giá vàng nữ trang - SJC 85.000 87.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 85.500
Giá vàng nữ trang - SJC 85.000 87.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 85.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 85.400 86.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 85.310 86.110
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 84.440 85.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 78.560 79.060
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 63.400 64.800
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 57.370 58.770
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 54.780 56.180
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 51.330 52.730
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 49.180 50.580
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 34.610 36.010
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 31.080 32.480
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 27.200 28.600
Cập nhật: 25/11/2024 02:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,470 8,670
Trang sức 99.9 8,460 8,660
NL 99.99 8,490
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,460
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,560 8,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,560 8,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,560 8,680
Miếng SJC Thái Bình 8,530 8,700
Miếng SJC Nghệ An 8,530 8,700
Miếng SJC Hà Nội 8,530 8,700
Cập nhật: 25/11/2024 02:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,046.60 16,208.68 16,728.64
CAD 17,687.79 17,866.46 18,439.60
CHF 27,837.96 28,119.15 29,021.19
CNY 3,419.82 3,454.37 3,565.18
DKK - 3,476.18 3,609.29
EUR 25,732.54 25,992.46 27,143.43
GBP 31,022.76 31,336.12 32,341.35
HKD 3,183.90 3,216.06 3,319.23
INR - 300.15 312.15
JPY 158.58 160.19 167.80
KRW 15.64 17.37 18.85
KWD - 82,362.07 85,654.62
MYR - 5,628.28 5,751.02
NOK - 2,235.02 2,329.91
RUB - 235.29 260.47
SAR - 6,754.55 7,002.80
SEK - 2,238.05 2,333.07
SGD 18,377.68 18,563.31 19,158.80
THB 649.08 721.20 748.82
USD 25,170.00 25,200.00 25,509.00
Cập nhật: 25/11/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,210.00 25,229.00 25,509.00
EUR 26,071.00 26,176.00 27,275.00
GBP 31,364.00 31,490.00 32,451.00
HKD 3,198.00 3,211.00 3,315.00
CHF 28,106.00 28,219.00 29,078.00
JPY 160.79 161.44 168.44
AUD 16,242.00 16,307.00 16,802.00
SGD 18,536.00 18,610.00 19,128.00
THB 712.00 715.00 746.00
CAD 17,850.00 17,922.00 18,438.00
NZD 14,619.00 15,111.00
KRW 17.40 19.11
Cập nhật: 25/11/2024 02:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25343 25343 25509
AUD 16149 16249 16817
CAD 17801 17901 18456
CHF 28210 28240 29034
CNY 0 3472.2 0
CZK 0 1011 0
DKK 0 3579 0
EUR 26021 26121 26996
GBP 31338 31388 32504
HKD 0 3266 0
JPY 161.72 162.22 168.77
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.11 0
MYR 0 5869 0
NOK 0 2284 0
NZD 0 14634 0
PHP 0 407 0
SEK 0 2300 0
SGD 18474 18604 19335
THB 0 679.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8500000 8500000 8700000
XBJ 8000000 8000000 8700000
Cập nhật: 25/11/2024 02:00