Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Lãi suất huy động tăng, lãi suất cho vay khó thấp

06:45 | 01/05/2022

118 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Kể từ đầu năm đến nay, lãi suất huy động tại các ngân hàng thương mại liên tiếp được điều chỉnh theo xu hướng tăng đối với nhiều kỳ hạn, khiến cộng đồng doanh nghiệp lo ngại về nguy cơ đối mặt với những đợt tăng lãi suất cho vay trong thời gian tới.
Lãi suất huy động những tháng đầu năm 2022 đã nhích lên đáng kể so với mặt bằng chung năm 2021
Lãi suất huy động những tháng đầu năm 2022 đã nhích lên đáng kể so với mặt bằng chung năm 2021

Mới đây, Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam (MSB) công bố chương trình cộng thêm 0,8% lãi suất khi gửi tiền tiết kiệm online so với mức lãi suất gửi tiết kiệm tại quầy. Theo đó, với giao dịch gửi tiết kiệm online tối thiểu từ 1 triệu đồng tại MSB, khách hàng sẽ nhận ngay lãi suất 7%/năm với kỳ hạn 15 tháng và 6,8% với kỳ hạn 6 tháng và 12 tháng. Đây là mức lãi suất huy động thuộc nhóm cao nhất trên thị trường hiện nay.

Trước đó, nhiều ngân hàng như: Ngân hàng TMCP Nam Á (NamABank), Ngân hàng TMCP Bản Việt (VietCapitalBank), Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank)... đã điều chỉnh tăng thêm 0,1-0,3%/năm lãi suất tiết kiệm ở nhiều kỳ hạn.

Xét về mức lãi suất huy động cao nhất tại mỗi ngân hàng, Techcombank đang dẫn đầu với 7,8%/năm, tiếp sau đó là Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) 7,6%/năm, NamABank 7,4%/năm. Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB), MSB hay VietCapitalBank cũng có mức lãi suất huy động cao 7-7,1%/năm... Tuy nhiên, để được hưởng mức lãi suất cao đó tại một số ngân hàng, khách hàng cần đáp ứng điều kiện gửi tiền từ vài trăm tỉ đồng trở lên.

Báo cáo từ Phòng Phân tích Công ty CP Chứng khoán Everest (EVS) cho thấy, lãi suất huy động đã nhích lên đáng kể so với mặt bằng chung năm 2021, trung bình 4,2-5,7%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn 6-12 tháng, 5,3-6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn 13-24 tháng.

Ở chiều ngược lại, lãi suất cho vay bằng VND đối với các khoản cho vay mới và cũ còn dư nợ phổ biến 7,8-9,2%/năm. Trong đó, lãi suất cho vay ngắn hạn đối với lĩnh vực ưu tiên là 4,3%/năm, thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định là 4,5%/năm.

Dù vậy, EVS nhận định: Vẫn còn khoảng cách lớn giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng huy động trong thời gian qua. Kết hợp với áp lực về thanh khoản do yếu tố Tết Nguyên đán 2022 đã khiến lãi suất liên ngân hàng tăng mạnh lên mức 2,08% vào thời điểm cuối quý I/2022. Ngân hàng Nhà nước thực hiện hỗ trợ thanh khoản kịp thời với tổng lượng tiền bơm ra đỉnh điểm lên tới gần 16.000 tỉ đồng. Bên cạnh đó, Kho bạc Nhà nước tiếp tục nối dài hoạt động chào mua ngoại tệ, dự kiến sẽ mua thêm 150 triệu USD từ các ngân hàng thương mại, tương đương 3.400 tỉ đồng.

Chính phủ bắt đầu triển khai gói chính sách tiền tệ hỗ trợ lãi suất 2%/năm, tối đa 40.000 tỉ đồng cho một số ngành nghề ưu tiên
Chính phủ bắt đầu triển khai gói chính sách tiền tệ hỗ trợ lãi suất 2%/năm, tối đa 40.000 tỉ đồng cho một số ngành nghề ưu tiên

Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho biết, tính đến hết quý I/2022, tín dụng tăng 5,04%, mức tăng có thể nói là khá ấn tượng so với mấy năm qua và gấp 4 lần mức tăng tín dụng quý I/2021.

Con số đó phản ánh nhu cầu về vốn đang tăng mạnh trở lại để phục vụ sản xuất kinh doanh sau thời gian dài đình trệ vì dịch bệnh, đồng thời cũng lý giải phần nào cho áp lực thanh khoản, đẩy lãi suất liên ngân hàng và lãi suất huy động liên tiếp tăng.

Đánh giá mặt bằng lãi suất hiện khó có thể giảm, Trung tâm Phân tích của Công ty CP Chứng khoán SSI (SSI Research) dự báo từ nay đến cuối năm 2022, lãi suất tiền gửi và cho vay sẽ tăng dần, phụ thuộc nhiều vào khả năng hồi phục của nền kinh tế cũng như diễn biến của lạm phát.

Chưa dừng ở đó, đã có doanh nghiệp tỏ ra lo ngại khó sẽ chồng khó, bởi ngoài việc lãi suất cho vay có khả năng sẽ tăng thì kênh huy động bằng trái phiếu doanh nghiệp cũng sẽ bị siết chặt, tâm lý của nhà đầu tư trở nên e dè hơn sau những ồn ào của Tập đoàn Tân Hoàng Minh vừa qua.

Trao đổi về vấn đề này, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, giảng viên cao cấp Học viện Tài chính, cho rằng, việc thanh lọc thị trường là bước đi cần thiết. Dù đã có nhiều quy định về việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp, nhưng các quy định đó vẫn còn nhiều kẽ hở, khiến doanh nghiệp có thể “lách luật” phát hành trái phiếu “3 không” - không tài sản bảo đảm, không xếp hạng tín nhiệm và không bảo lãnh thanh toán - gây rủi ro lớn cho nhà đầu tư. Do đó, cơ quan quản lý cần siết chặt các quy định phát hành trái phiếu. Đồng thời, cơ chế quản lý, giám sát, xử phạt cũng cần chặt chẽ và nghiêm khắc hơn để bảo đảm sự phát triển lành mạnh và bền vững của một trong những phương thức huy động vốn rất quan trọng trong nền kinh tế.

Còn về tín dụng ngân hàng, PGS.TS Đinh Trọng Thịnh nhận định, trước bối cảnh lãi suất huy động đang có xu hướng điều chỉnh tăng, lãi suất cho vay cũng có thể tăng nhẹ trong thời gian tới.

Ở góc độ của ngân hàng thương mại, một lãnh đạo ngân hàng cho biết, mặc dù lãi suất huy động đã tăng tại nhiều ngân hàng thương mại thời gian gần đây nhưng lãi suất cho vay có thể sẽ không có nhiều biến động.

Lý do trước hết là bởi không chỉ tại thời điểm này mà trong suốt hơn 2 năm qua kể từ khi dịch Covid-19 bùng phát, các ngân hàng thương mại đã thực hiện chỉ đạo và chủ trương tiết giảm chi phí hoạt động để tập trung nguồn vốn hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng do dịch bệnh. Hơn nữa, các tổ chức tín dụng vẫn đang phải tuân thủ nghiêm các quy định về giảm lãi suất, cơ cấu nợ cho doanh nghiệp phục hồi sản xuất theo chỉ đạo của Chính phủ.

Thêm nữa, Quốc hội đã thông qua và Chính phủ cũng bắt đầu triển khai gói chính sách tiền tệ hỗ trợ lãi suất 2%/năm, tối đa 40.000 tỉ đồng cho một số ngành nghề ưu tiên. Đây là nguồn vốn cần thiết để tiếp sức cho doanh nghiệp hồi phục sau đại dịch.

Trước đó, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần điều chỉnh giảm lãi suất điều hành, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay.

Lãi suất huy động đã nhích lên đáng kể so với mặt bằng chung năm 2021, trung bình 4,2-5,7%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn 6-12 tháng, 5,3-6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn 13-24 tháng.

Mỹ Phượng

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,500 84,500
AVPL/SJC HCM 82,500 84,500
AVPL/SJC ĐN 82,500 84,500
Nguyên liệu 9999 - HN 82,200 82,500
Nguyên liệu 999 - HN 81,100 82,400
AVPL/SJC Cần Thơ 82,500 84,500
Cập nhật: 12/10/2024 08:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 82.000 83.100
TPHCM - SJC 82.500 84.500
Hà Nội - PNJ 82.000 83.100
Hà Nội - SJC 82.500 84.500
Đà Nẵng - PNJ 82.000 83.100
Đà Nẵng - SJC 82.500 84.500
Miền Tây - PNJ 82.000 83.100
Miền Tây - SJC 82.500 84.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 82.000 83.100
Giá vàng nữ trang - SJC 82.500 84.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 82.000
Giá vàng nữ trang - SJC 82.500 84.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 82.000
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 81.800 82.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 81.720 82.520
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 80.870 81.870
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 75.260 75.760
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 60.700 62.100
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 54.920 56.320
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 52.440 53.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 49.140 50.540
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 47.070 48.470
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 33.110 34.510
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 29.730 31.130
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 26.010 27.410
Cập nhật: 12/10/2024 08:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,140 8,320
Trang sức 99.9 8,130 8,310
NL 99.99 8,180
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 8,160
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,230 8,330
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,230 8,340
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,230 8,330
Miếng SJC Thái Bình 8,250 8,450
Miếng SJC Nghệ An 8,250 8,450
Miếng SJC Hà Nội 8,250 8,450
Cập nhật: 12/10/2024 08:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,319.17 16,484.01 17,013.46
CAD 17,589.56 17,767.23 18,337.90
CHF 28,238.57 28,523.81 29,439.97
CNY 3,420.66 3,455.21 3,566.18
DKK - 3,572.38 3,709.32
EUR 26,454.57 26,721.79 27,906.13
GBP 31,567.01 31,885.87 32,910.01
HKD 3,112.87 3,144.31 3,245.30
INR - 294.73 306.52
JPY 161.08 162.71 170.46
KRW 15.94 17.71 19.22
KWD - 80,883.98 84,120.69
MYR - 5,730.33 5,855.52
NOK - 2,265.77 2,362.05
RUB - 242.99 269.01
SAR - 6,592.22 6,856.02
SEK - 2,342.32 2,441.85
SGD 18,531.50 18,718.68 19,319.91
THB 658.22 731.36 759.39
USD 24,610.00 24,640.00 25,000.00
Cập nhật: 12/10/2024 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,660.00 24,670.00 25,010.00
EUR 26,624.00 26,731.00 27,850.00
GBP 31,826.00 31,954.00 32,944.00
HKD 3,132.00 3,145.00 3,250.00
CHF 28,444.00 28,558.00 29,456.00
JPY 163.29 163.95 171.45
AUD 16,432.00 16,498.00 17,008.00
SGD 18,679.00 18,754.00 19,306.00
CAD 17,732.00 17,803.00 18,339.00
THB 724.00 727.00 759.00
DKK 3,574.00 3,709.00
NOK 2,266.00 2,362.00
Cập nhật: 12/10/2024 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24630 24630 25000
AUD 16370 16470 17033
CAD 17682 17782 18333
CHF 28559 28589 29382
CNY 0 3476.1 0
CZK 0 1028 0
DKK 0 3644 0
EUR 26712 26812 27685
GBP 31943 31993 33096
HKD 0 3180 0
JPY 163.68 164.18 170.69
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.1 0
LAK 0 1.0501 0
MYR 0 6104 0
NOK 0 2300 0
NZD 0 14925 0
PHP 0 420 0
SEK 0 2395 0
SGD 18629 18759 19481
THB 0 689.3 0
TWD 0 768 0
XAU 8250000 8250000 8450000
XBJ 7700000 7700000 8200000
Cập nhật: 12/10/2024 08:00