Kỳ I: Vị thế đồng đô-la trong thế giới dầu mỏ
Ảnh minh họa |
Theo OAPEC, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ Ả rập (OAPEC) là một tổ chức liên chính phủ khu vực được thành lập theo một thỏa thuận được ký kết tại Beirut vào ngày 9/1/1968 giữa Kuwait, Libyan (Vương quốc Libya vào thời điểm đó) và Vương quốc Ả rập Xê-út đã chọn Kuwait làm nơi đặt trụ sở chính. Nhận thức được vai trò của dầu khí là nguồn thu nhập chính và cơ bản của các thành viên, OAPEC quan tâm đến sự phát triển và thịnh vượng của lĩnh vực dầu khí thế giới bằng cách thúc đẩy sự hợp tác chặt chẽ và hiệu quả giữa các thành viên được hướng dẫn bởi niềm tin vào tầm quan trọng của việc xây dựng một lĩnh vực dầu khí tích hợp như một nền tảng cho sự hội nhập kinh tế trong tương lai giữa các nước Ả rập và góp phần sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên của các nước thành viên thông qua việc tài trợ cho các liên doanh.
Để giúp quý độc giả tìm hiểu thêm về “petrodollars”, trong phạm vi bài viết, xin trân trọng được giới thiệu tóm tắt những nội dung chính của ấn phẩm nghiên cứu “Khảo sát từ các nước OAPEC về petrodollars và phi đô-la hóa” do nhóm các giảng viên thuộc Khoa Quản lý, kinh tế và công nghệ kinh doanh (Đại học Nga-Ai Cập -ERU, thành phố Badr, CH Ai Cập) soạn thảo và phát hành số ra gần đây, và đã được đăng tải lại trên trang mạng //www.researchgate.net/journal/ để tiện theo dõi, tham khảo.
*******
Hệ thống tiền tệ quốc tế sau Thế chiến thứ hai
Việc thiết lập một hệ thống tiền tệ quốc tế mới nhằm cứu thế giới khỏi cuộc khủng hoảng tài chính tồn tại giữa hai cuộc chiến tranh thế giới là điều khó khăn cho đến năm 1944, khi những người chiến thắng trong Thế chiến thứ hai gặp nhau tại Bretton Woods, tiểu bang New Hampshire (Hoa Kỳ) để thành lập một hệ thống tiền tệ quốc tế mới. Các cường quốc có mối quan tâm mạnh mẽ đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc tái thiết các nền kinh tế châu Âu, từ đó ngăn chặn sự quay trở lại cuộc cạnh tranh phá giá tiền tệ và các biện pháp bảo hộ như thời những năm 1930. Trong bối cảnh này, Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế (international bank for reconstruction and development-IBRD) được thành lập để cung cấp tài chính dài hạn cho việc tái thiết châu Âu.
Kể từ những năm 1950, hoạt động của Ngân hàng IBRD đã chuyển sang cung cấp các khoản vay dài hạn để tài trợ cho các sáng kiến và chương trình phát triển ở các quốc gia đang phát triển, đồng thời một khuôn khổ thể chế cũng đã được thiết lập để quản lý hệ thống mới dựa trên các nguyên tắc đã được thống nhất. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã áp đặt các yêu cầu sau đối với các quốc gia thành viên: Tăng cường hợp tác tài chính toàn cầu; tạo điều kiện mở rộng thương mại quốc tế; tăng cường ổn định tiền tệ; triển khai hệ thống thanh toán đa phương, và sử dụng Quỹ để tích lũy dự phòng đủ dự trữ ngoại hối.
Trên cơ sở hệ thống như vậy, mỗi quốc gia thành viên sẽ ấn định giá trị đồng tiền của mình theo một lượng vàng hoặc đồng đô-la Hoa Kỳ cố định và tiền tệ sẽ được phép dao động không quá 1% xung quanh tỷ giá mệnh giá đã công bố, với sự can thiệp của các ngân hàng trung ương trong việc mua hoặc bán tiền tệ của họ trên thị trường tự do để duy trì mức giá này. Hệ thống Bretton Woods được thành lập trên cơ sở trao đổi vàng bởi vì nó dựa trên khả năng chuyển đổi đồng đô-la Hoa Kỳ thành vàng và ấn định tỷ giá hối đoái của các loại tiền tệ khác so với đồng đô-la. Như vậy, mối quan hệ giữa vàng và các loại tiền tệ khác trở nên gián tiếp. Nhà kinh tế học John Maynard Keynes (Vương quốc Anh) coi sự tồn tại của đồng đô-la là điểm tựa của hệ thống mới như là một điểm yếu khi ủng hộ việc áp dụng một loại tiền tệ quốc tế mới do IMF phát hành có tên là “the Bancor” song đề xuất của ông đã bị từ chối vào đầu những năm 1960 khi những sai sót của hệ thống Bretton Woods trở nên rõ ràng.
Sau Thế chiến thứ hai, hệ thống Bretton Woods đã góp phần mở rộng lưu thông toàn cầu của đồng đô-la, từ đó biến nó trở thành loại tiền tệ quan trọng nhất để giải quyết các giao dịch quốc tế. Bất chấp những dự đoán rộng rãi về sự chuyển đổi nhanh chóng trên toàn cầu sang đồng đô-la Hoa Kỳ sau năm 1945, chức năng dự trữ của đồng bảng Anh vẫn không ngừng hoạt động cho đến cuối những năm 1970. Đồng đô-la Hoa Kỳ có thể đóng vai trò là kênh trú ẩn an toàn trên thị trường tài chính trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế cũng như đem lại rủi ro giảm giá rất hấp dẫn đối với tiền tệ của các nền kinh tế mới nổi. Đồng thời cũng đem lại niềm tin vào giá trị của đồng tiền, đòi hỏi niềm tin vào hiệu suất lạm phát của quốc gia phát hành tiền tệ và giá trị ổn định để trở thành đơn vị tính toán và đơn vị trao đổi. Tỷ giá hối đoái mất giá do lạm phát cao và biến động, trong bối cảnh này, diễn biến lạm phát của Hoa Kỳ đã vượt trội so với các quốc gia công nghiệp phát triển kể từ khi áp dụng tỷ lệ giảm phát (1973). Mặt khác, Hoa Kỳ có được sự ổn định chính trị cao do không có các quốc gia sẵn sàng tấn công nước này cũng như không có xung đột nội bộ và các phong trào giải phóng, ngoại trừ sự kiện ngày 11/9/2001, được coi là một trong những yếu tố bắt đầu gây bất ổn cho đồng đô-la Hoa Kỳ trên bình diện quốc tế.
Hiện các đặc điểm kinh tế của quốc gia phát hành tiền tệ, chẳng hạn như tỷ trọng thương mại quốc tế và quy mô nền kinh tế của quốc gia đó. Ngoài việc sở hữu nhiều công cụ tài chính đa dạng và thị trường phát triển, quốc gia phát hành tiền tệ còn có đồng tiền tài chính được tự do hóa và mở rộng. Kể từ năm 2002, sự kết hợp của các yếu tố bên trong và bên ngoài đã góp phần làm mất giá đồng đô-la Hoa Kỳ vốn bị ảnh hưởng bởi một số xáo trộn bên trong và bên ngoài. Thâm hụt ngân sách chi phối các yếu tố bên trong cũng như việc Hoa Kỳ theo đuổi chính sách đối ngoại tiêu hao một phần đáng kể nguồn lực của mình thông qua chi tiêu cho chiến tranh và cạnh tranh vũ khí. Hậu quả là nền kinh tế Hoa Kỳ phải gánh chịu tình trạng mất cân bằng cơ cấu, thể hiện ở sự suy giảm thâm hụt ngân sách công.
Trong bối cảnh đó, Trung Quốc đã tích cực can thiệp vào thị trường ngoại hối nhằm gây áp lực lên đồng đô-la Hoa Kỳ nhằm ngăn chặn đồng tiền nước này tăng giá và cạnh tranh với hàng xuất khẩu. Sự can thiệp hàng tháng của Trung Quốc vào thị trường ngoại hối dao động từ 10 tỷ đến 15 tỷ USD. Ảnh hưởng của đồng đô-la Hoa Kỳ đã gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng ảnh hưởng đến các đồng tiền châu Âu. Các quốc gia châu Âu đã trải qua sự mất cân bằng nghiêm trọng, biểu hiện bằng tỷ lệ lạm phát tăng mạnh, khả năng cạnh tranh của sản phẩm giảm và giá trị đồng tiền của họ giảm. Do đó, những biến động về giá trị của đồng đô-la Hoa Kỳ và nền kinh tế toàn cầu đã có những tác động sau: Thông qua sự phục hồi xuất khẩu của các quốc gia này sang Hoa Kỳ, tỷ giá hối đoái của đồng đô-la Hoa Kỳ cải thiện khả năng cạnh tranh của các nền kinh tế nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn Hoa Kỳ, dẫn đến tốc độ tăng trưởng cao hơn ở những quốc gia này.
Do đó, sự gia tăng tỷ giá hối đoái của đồng đô-la Hoa Kỳ dẫn đến việc xuất khẩu tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ sang phần còn lại của thế giới. Ở cấp độ khu vực, những tác động do sự biến động của giá đồng đô-la Hoa Kỳ gây ra là khác nhau, cho phép phân biệt giữa hiệu ứng thay thế và hiệu ứng thu nhập, trong đó hiệu ứng thay thế hoặc chuyển giao khi sự biến động của tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến lợi nhuận của khu vực nước ngoài trên thị trường quốc tế đã gây thiệt hại cho các khu vực trong khu vực đồng đô-la Hoa Kỳ. Đối với hiệu ứng thu nhập, đó là kết quả thu được từ hiệu ứng thay thế, chẳng hạn như tỷ lệ năng suất lao động tăng lên.
Thị trường dầu mỏ toàn cầu và US dollars
Hiện có một mối quan hệ chặt chẽ giữa thị trường dầu mỏ toàn cầu và tỷ giá hối đoái của đồng đô-la Hoa Kỳ bởi vì các giao dịch mua bán dầu thô được thực hiện bằng đồng đô-la Hoa Kỳ; phần lớn các nước sản xuất dầu mỏ nhận được doanh thu bằng đồng đô-la Hoa Kỳ và các tập đoàn dầu khí quốc tế đầu tư bằng đồng đô-la Hoa Kỳ khi thặng dư tài chính tích lũy ở các quốc gia sản xuất dầu mỏ.
Trong bối cảnh này, đồng đô-la Hoa Kỳ là loại tiền tệ chiếm ưu thế khi Hoa Kỳ tác động lên giá trị đồng tiền của mình, lên hoặc xuống, thông qua nhiều phương tiện khác nhau, trong đó quan trọng nhất là lãi suất hoặc thông qua các tuyên bố của các quan chức chính sách tiền tệ Hoa Kỳ, điều này sẽ được phản ánh trong giá cả hàng hóa và dịch vụ được tính bằng đồng đô-la Hoa Kỳ, chẳng hạn như dầu mỏ. Điều này giải thích bản chất của mối quan hệ giữa sự thay đổi tỷ giá hối đoái của đồng đô-la Hoa Kỳ và sự thay đổi của giá dầu thô bởi vì đồng đô-la Hoa Kỳ là loại tiền tệ mạnh nhất trên thế giới xét về sức mạnh kinh tế và dầu mỏ chắc chắn là mặt hàng có giá trị nhất và được giao dịch nhiều nhất. Thông thường, bản chất của mối quan hệ giữa hai biến này là đảo nghịch bởi vì giá đồng đô-la Hoa Kỳ giảm thì sẽ dẫn đến giá dầu thô tăng. Theo báo cáo của Cathin Lane, có 90% khả năng giá dầu thô tăng do đồng đô-la Hoa Kỳ giảm. Vào giữa năm 2008, giá dầu thô thấp có liên quan đến việc tỷ giá hối đoái của đồng đô-la Hoa Kỳ tăng lên, bất chấp ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính. Những tác động ngắn hạn và dài hạn của việc giảm bớt vai trò đồng đô-la Hoa Kỳ là hoàn toàn khác nhau. Trường hợp nếu chấp nhận một trong những lý do khiến đồng đô-la Hoa Kỳ giảm giá là do thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ tăng lên thì tác động ngắn hạn sẽ là giá dầu thô tăng bởi vì các cá nhân có xu hướng đổi đồng đô-la của họ lấy các tài sản hiện vật, trong số đó quan trọng nhất là dầu thô, do đó làm gia tăng sự đầu cơ trên thị trường dầu mỏ tương lai.
Theo IMF, bất cứ khi nào giá dầu thô tăng 10%, tỷ giá hối đoái của đồng tiền các nước thành viên OPEC sẽ giảm 2%. Điều này là do giá dầu thô cao hơn dẫn đến tăng nhập khẩu dầu thô vào thị trường Hoa Kỳ, từ đó dẫn đến sự gia tăng thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai của Hoa Kỳ, điều này cũng dẫn đến đồng đô-la mất giá song nền kinh tế Hoa Kỳ được hưởng lợi từ việc giá dầu thô giảm hoặc tăng. Trường hợp nếu quan ngại về giá dầu thô quá cao, ngay lập tức Hoa Kỳ sẽ tăng tỷ giá hối đoái của đồng đô-la để mua dầu với giá thấp hơn.
Tuy nhiên, nếu còn quan ngại về an ninh năng lượng, Hoa Kỳ nên áp dụng chính sách đồng đô-la mạnh vì điều này sẽ hạn chế sự tăng trưởng của nhu cầu dầu mỏ toàn cầu. Khi giá dầu giảm do đồng đô-la tăng giá, doanh số bán dầu thô sẽ tăng trong ngắn hạn và sự tăng giá của đồng đô-la so với tiền tệ của các quốc gia khác sẽ tối đa hóa doanh thu của họ. Mặt khác, khu vực đồng euro được hưởng lợi từ tỷ giá đồng đô-la thấp hơn do chi phí sản xuất và nhập khẩu dầu thấp hơn, cũng như giá cả hàng hóa và dịch vụ của Hoa Kỳ thấp hơn so với hàng hóa và dịch vụ của châu Âu.
Xu hướng sáp nhập M&A trong ngành dầu mỏ khi nào dừng lại? |
Gián đoạn khí đốt Na Uy tác động giá khí châu Âu như thế nào? |
Malaysia điều chỉnh các chính sách về dầu khí |
Tuấn Hùng
Researchgate
-
Kỳ I: Giả thuyết về sự tồn tại của lượng tử không - thời gian và Thuyết siêu liên kết
-
Trái phiếu thảm họa - phao cứu sinh cho Philippines
-
Chuyện ít biết về Pavel Durov - “thần đồng Internet” của Nga
-
Olympic Paris 2024: Chiến dịch marketing đột phá cho kỷ nguyên mới
-
Tập đoàn RAND: “Cỗ máy tư duy” hàng đầu của giới cầm quyền Mỹ