Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Dự báo giá dầu 2016

07:15 | 01/01/2016

3,539 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Những ngày cuối năm 2015, giá dầu thế giới tiếp tục ở mức thấp kỷ lục. Theo nhiều dự báo khác nhau, giá dầu trong năm tới và nhiều năm sau nữa sẽ dao động trong khoảng từ 20 đến 95 USD/thùng.  

Giá dầu thấp là con dao hai lưỡi

Giá dầu trên thị trường Mỹ tính tới đầu tháng 12/2015 giảm mất gần 60% so với đỉnh điểm hồi tháng 6/2014. Vào cuối tuần trước, giá dầu Brent trên thị trường châu Âu chạm đáy ở mức chưa đến 36USD/thùng. Cùng lúc báo cáo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế dự báo thị trường dầu hỏa trên thế giới trong tình trạng ứ đọng tối thiểu là cho đến cuối 2016. Đây là hậu quả trực tiếp của hiện tượng cung vượt cầu.

Nhu cầu tiêu thụ của thế giới tăng rất chậm trong lúc các quốc gia sản xuất dầu mà đứng đầu là khối OPEC không có ý định khóa bớt van dầu. Chẳng những trong phiên họp đầu tháng 12/2015, OPEC vẫn duy trì sản lượng trung bình 30 triệu thùng mỗi ngày. Trên thực tế, trong tháng 11/2015 mức sản xuất thực sự của các thành viên OPEC đã lên tới 31,7 triệu thùng. Đó là chưa kể, chỉ trong vài tuần lễ nữa, dầu hỏa của Iran sẽ nhập cuộc.

du bao gia dau 2016

Dự báo giá dầu mỏ trong năm 2016 chưa thể tăng trở lại

Theo chuyên gia về dầu lửa Olivier Appert, OPEC giờ không còn đóng vai trò điều chỉnh giá cả trên thị trường theo luật cung cầu. Bởi vì khối này biết rằng, nếu giảm mức sản xuất và xuất khẩu, thì lập tức Mỹ, Canada mở van xuất khẩu mạnh hơn. Nga cũng sẽ không ngần ngại nâng mức sản xuất. Trong bối cảnh đó, khối OPEC hoàn toàn không có lợi gì khi quyết định giảm giá dầu.

Ban đầu được nhiều nước chào đón nhưng khi giá dầu càng giảm sâu và kéo dài thì tác động của nó với nền kinh tế thế giới và cả những lĩnh vực khác lại lợi bất cập hại. Những chuyên gia và những nhà đầu tư cho rằng, giá dầu thấp chắc chắn sẽ tiếp tục gây thiệt hại cho những công ty năng lượng và những nền kinh tế của những nước đang trỗi dậy lệ thuộc nhiều vào xuất khẩu dầu thô.

Theo nhà kinh tế C. Fred Bergsten, Nga, Arập Xêút, Venezuela và những nhà sản xuất dầu đá phiến của Mỹ bị thiệt hại. Những nước xuất khẩu dầu mỏ chủ chốt như Arập Xêút đang tìm cách đa dạng hóa nền kinh tế của mình và đang bị thâm hụt ngân sách, trong khi Venezuela đang đối phó với tình trạng lạm phát cao và nền kinh tế đình trệ, nước giàu dầu mỏ Azerbaijan buộc phải phá giá đồng tiền của mình, giảm hơn 30% so với đồng USD.

Thế giới vừa thông qua thỏa thuận Paris về khí hậu, cam kết giảm lượng phát khí thải carbon làm hâm nóng bầu khí quyển. Cộng đồng quốc tế nhấn mạnh đến giai đoạn chuyển giao năng lượng, phát triển năng lượng xanh. Có điều, giá dầu hỏa càng thấp, thì càng củng cố vị trí của vàng đen trên bàn cờ năng lượng. Điều đó khiến các nguồn năng lượng tái tạo kém hấp dẫn hơn trong mắt các nhà đầu tư.

Có nhiều khả năng, người ta bỏ vốn vào các tập đoàn phát triển năng lượng xanh với hy vọng kiếm lời. Thế nhưng nhìn từ phía các nhà sản xuất đang có dự án phát triển năng lượng tái tạo, thì giá dầu càng rẻ, người tiêu thụ lại càng “lười biếng” chuyển đổi năng lượng, thay thế dầu hỏa bằng các loại năng lượng sạch. Nhưng chắc chắn là nếu dầu hỏa còn rẻ như thế này, thì ngành công nghiệp than đá không trụ được lâu.

Thực vậy, than đá gây ra 1/3 khí thải CO2 toàn cầu. Mức tiêu thụ trên thế giới trong giai đoạn 1990-2012 tăng 55%. Trung Quốc, Nga, Mỹ, Đức, hay Ba Lan là những quốc gia tiêu thụ than đá nhiều nhất trên thế giới và thường bị chỉ trích là những nguồn phát thải khí carbon hâm nóng trái đất. Với giá dầu chỉ còn 40USD/thùng, nhiều nhà quan sát cho rằng, bước chuyển hướng năng lượng đầu tiên của các nền kinh tế nói trên là sẽ chuyển từ than đá sang dầu hỏa. Và đây chưa hẳn là một tin vui đối với môi trường.

Hơn nữa, giá dầu hỏa rẻ là trở ngại cho các công trình nghiên cứu, cho các dự án đầu tư vào các nguồn năng lượng tái tạo. Nhờ những phát minh, những tiến bộ kỹ thuật, các nguồn năng lượng sạch - gió, mặt trời, thủy điện hay địa nhiệt bắt đầu được đưa vào bàn cờ năng lượng quốc tế ở quy mô còn rất khiêm tốn. Thậm chí, một quốc gia dầu hỏa như Tiểu Vương quốc các nước Arập cũng đã cam kết đến năm 2020, gần một phần tư năng lượng sử dụng trên vương quốc này đến từ các nguồn năng lượng sạch.

Liệu rằng hứa hẹn đó có còn tính thời sự hay không trong tình trạng dự thừa dầu hỏa như hiện nay? Nhiều tổ chức bảo vệ môi trường lo ngại rằng, hiện tượng dư thừa dầu hỏa sẽ kìm hãm đà “chuyển tiếp năng lượng”. Các dự án đầu tư và phát triển năng lượng sạch thêm xa vời.

Giá dầu sẽ lên 95USD vào năm 2040

Một số chuyên gia cho rằng, giá dầu sẽ không sớm tăng lên trong thời gian tới. Dự báo mới từ cả Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho thấy, giá dầu sẽ giảm nhiều hơn nữa - xuống thấp tới mức 20USD/thùng vào năm 2016. Tổ chức OPEC mới đây dự báo rằng, giá dầu toàn cầu sẽ vào khoảng 70USD/thùng đến năm 2020 và 95USD đến năm 2040. Tổ chức này cho rằng, tình trạng thặng dư dầu hiện nay sẽ tan biến khi nhu cầu gia tăng. OPEC đã quyết định hiện giờ chưa phải cắt giảm sản lượng.

John Demopoulos là một chiến lược gia thị trường cao cấp thuộc Công ty Argus Media chuyên theo dõi những thị trường năng lượng và hàng hóa thô toàn cầu. Ông không thấy có dấu hiệu nào trước mắt cho thấy giá dầu sẽ tăng đáng kể trong năm 2016 vì hai nguyên nhân chính. 1) Iran sẽ đưa nhiều dầu hơn ra thị trường vì họ thoát khỏi một số những biện pháp chế tài đã ngăn trở họ xuất khẩu dầu mỏ; 2) một luật mới cho phép Mỹ lần đầu tiên xuất khẩu dầu thô sau nhiều thập niên.

S.Phương

Năng lượng Mới 487

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 82,000 84,000
AVPL/SJC HCM 82,000 84,000
AVPL/SJC ĐN 81,500 83,500
Nguyên liệu 9999 - HN 82,400 82,700
Nguyên liệu 999 - HN 82,300 82,600
AVPL/SJC Cần Thơ 82,000 84,000
Cập nhật: 04/10/2024 00:47
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 82.200 83.200
TPHCM - SJC 82.000 84.000
Hà Nội - PNJ 82.200 83.200
Hà Nội - SJC 82.000 84.000
Đà Nẵng - PNJ 82.200 83.200
Đà Nẵng - SJC 82.000 84.000
Miền Tây - PNJ 82.200 83.200
Miền Tây - SJC 82.000 84.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 82.200 83.200
Giá vàng nữ trang - SJC 82.000 84.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 82.200
Giá vàng nữ trang - SJC 82.000 84.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 82.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 82.000 82.800
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 81.920 82.720
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 81.070 82.070
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 75.450 75.950
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 60.850 62.250
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 55.050 56.450
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 52.570 53.970
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 49.260 50.660
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 47.190 48.590
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 33.200 34.600
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 29.800 31.200
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 26.070 27.470
Cập nhật: 04/10/2024 00:47
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,160 8,340
Trang sức 99.9 8,150 8,330
NL 99.99 8,200
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 8,180
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,250 8,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,250 8,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,250 8,350
Miếng SJC Thái Bình 8,200 8,400
Miếng SJC Nghệ An 8,200 8,400
Miếng SJC Hà Nội 8,200 8,400
Cập nhật: 04/10/2024 00:47
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 82,000 84,000
SJC 5c 82,000 84,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 82,000 84,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 81,600 83,000
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 81,600 83,100
Nữ Trang 99.99% 81,550 82,700
Nữ Trang 99% 79,881 81,881
Nữ Trang 68% 53,892 56,392
Nữ Trang 41.7% 32,139 34,639
Cập nhật: 04/10/2024 00:47

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,545.62 16,712.74 17,249.62
CAD 17,832.98 18,013.11 18,591.76
CHF 28,314.22 28,600.23 29,518.97
CNY 3,454.21 3,489.11 3,601.73
DKK - 3,593.17 3,730.92
EUR 26,604.17 26,872.90 28,064.07
GBP 31,697.36 32,017.54 33,046.05
HKD 3,105.04 3,136.40 3,237.16
INR - 293.97 305.73
JPY 163.84 165.50 173.41
KRW 16.07 17.85 19.37
KWD - 80,708.43 83,938.50
MYR - 5,815.95 5,943.04
NOK - 2,286.63 2,383.81
RUB - 247.66 274.17
SAR - 6,576.07 6,839.25
SEK - 2,352.07 2,452.03
SGD 18,627.61 18,815.76 19,420.19
THB 660.93 734.36 762.52
USD 24,550.00 24,580.00 24,920.00
Cập nhật: 04/10/2024 00:47
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,520.00 24,540.00 24,880.00
EUR 26,736.00 26,843.00 27,961.00
GBP 32,128.00 32,257.00 33,251.00
HKD 3,115.00 3,128.00 3,233.00
CHF 28,502.00 28,616.00 29,522.00
JPY 164.10 164.76 172.36
AUD 16,667.00 16,734.00 17,247.00
SGD 18,740.00 18,815.00 19,372.00
THB 727.00 730.00 763.00
CAD 17,938.00 18,010.00 18,560.00
NZD 15,188.00 15,697.00
KRW 17.78 19.63
Cập nhật: 04/10/2024 00:47
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24565 24565 24945
AUD 16604 16704 17266
CAD 17956 18056 18608
CHF 28666 28696 29490
CNY 0 3490.9 0
CZK 0 1028 0
DKK 0 3644 0
EUR 26881 26981 27854
GBP 31989 32039 33142
HKD 0 3180 0
JPY 165.49 165.99 172.5
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.3 0
LAK 0 1.0501 0
MYR 0 6104 0
NOK 0 2325 0
NZD 0 15199 0
PHP 0 420 0
SEK 0 2395 0
SGD 18714 18844 19566
THB 0 692.7 0
TWD 0 768 0
XAU 8200000 8200000 8400000
XBJ 7700000 7700000 8100000
Cập nhật: 04/10/2024 00:47