Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Doanh nghiệp mắc kẹt vì lương tối thiểu

07:00 | 13/07/2018

415 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Lương tối thiểu được coi là “tấm lưới” đỡ cho lao động yếu thế, nhưng tính cào bằng và vấn đề lương thâm niên đang khiến doanh nghiệp mắc kẹt vì “tấm lưới” này.

Trải qua hơn 4 giờ bàn luận căng thẳng, phiên đầu tiên của mùa đàm phán lương tối thiểu 2019 đã hé lộ mức chênh lệch 8% trong đề xuất của các bên.

doanh nghiep mac ket vi luong toi thieu
Mức lương tối thiểu vùng từ năm 2011 đến năm 2018 tăng hơn 194%, trong đó mức tăng từ năm 2011-2014 đã là 100%.

Năng suất lao động chưa đuổi kịp chi phí lao động

Trong khi đại diện của doanh nghiệp, giới sử dụng lao động là Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) kiến nghị không điều chỉnh lương tối thiểu vùng 2019 thì đại diện người lao động Tổng LĐLĐ Việt Nam đưa ra mức tăng 8%. Trên thực tế, biên độ chênh lệch mức quá lớn này đã được dự báo trước, bởi sự khác biệt về cách tiếp cận giữa các bên.

Cụ thể, trong khi Tổng LĐLĐ nhấn mạnh yếu tố đảm bảo mức sống cho người lao động, thì VCCI đánh giá những năm qua mức lương tối thiểu vùng đã tăng nhanh so với chỉ số CPI và năng lực chi trả của doanh nghiệp. Trong khi GDP bình quân đầu người năm 2017 tăng 2,04 lần so với năm 2010 thì mức lương tối thiểu đã tăng đến 3,02 lần.

Điều đáng nói, trong khi năng suất lao động của Việt Nam “đội sổ” trong khu vực, thậm chí thua cả Lào, thì tốc độ tăng năng suất cũng khiêm tốn mức 4,7% giai đoạn 2011-2017. Cùng với đó, hiệu quả sử dụng lao động trong giai đoạn 2007-2016 đã không những không được cải thiện mà còn giảm đi, từ 17,3 lần năm 2007 xuống còn 14,3 lần năm 2016.

Trong khi đó, lương tối thiểu vùng tăng bình quân nhiều lần trong giai đoạn 2008 – 2018.

Cụ thể, đối với các doanh nghiệp trong nước là 20,4%, đối với các doanh nghiệp FDI là 14,4%. “Như vậy, hiệu suất sử dụng lao động ở các loại hình doanh nghiệp theo quy mô đều có xu hướng giảm đi. Điều này cho thấy bài toán giữa chi phí lao động và năng suất lao động ở Việt Nam đang ngày càng ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp vì việc nâng cao năng suất lao động chưa đuổi kịp việc tăng chi phí lao động”, ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch VCCI nhận định.

“Do đó, VCCI kiến nghị không điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng năm 2019. Theo đó, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tái cơ cấu sản xuất, có chính sách đào tạo lao động đáp ứng yêu cầu, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững”, Phó Chủ tịch VCCI kiến nghị.

“Xói mòn” sức cạnh tranh

Cùng quan điểm với VCCI, đánh giá của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tháng 5/2018 cũng cho thấy, mức tăng lương tối thiểu quá nhanh tạo ra những quan ngại về sự “xói mòn” trong khả năng cạnh tranh của ngành xuất khẩu Việt Nam. Nhất là giữa người sử dụng lao động có mức lương thấp và ngành công nghiệp xuất khẩu thâm dụng lao động như dệt may, da giày và các ngành khác.

Trao đổi với DĐDN ngay sau phiên họp đầu tiên, Nguyên Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH, Nguyên Chủ tịch Hội đồng Tiền lương quốc gia Phạm Minh Huân nhận định, đề xuất mức tăng 8% là cao. Nếu tăng chỉ nên ở mức dưới 5%.

Theo lý giải của ông Huân, lương tối thiểu đang được dùng là mức lương bậc 1. Như vậy khi lương tối thiểu tăng cả bảng lương hàng chục bậc của doanh nghiệp sẽ điều chỉnh tăng theo. Trong khi đó đa số doanh nghiệp áp dụng lương thâm niên, thậm chí doanh nghiệp thâm dụng nhiều lao động, bảng lương có đến 20 bậc.

Đặc biệt, lương tối thiểu không phải điều duy nhất doanh nghiệp “sợ”. Mà BHXH và các khoản phí khác tăng theo khi mặt bằng lương tối thiểu vùng tăng cũng là nỗi ám ảnh lớn của doanh nghiệp.

Như vậy, những tranh cãi về mức điều chỉnh lương tối thiểu vùng 2019 được dự đoán sẽ tiếp diễn trước khi đưa ra mức đề xuất cụ thể dung hòa các bên được xác lập. Gần đây nhất, năm 2017, cũng phải trải qua 3 lần thương lượng căng thẳng, đề xuất tăng lương tối thiểu vùng năm 2018 mới được chốt ở mức 6,5%.

Bà Nguyễn Thị Lan Hương - Nguyên Chủ tịch Hội đồng tiền lương Quốc gia: Lương tối thiểu đang đi ngược xu hướng các nước

doanh nghiep mac ket vi luong toi thieu

Về nguyên lý, tốc độ tăng lương tối thiểu nên thấp hơn và chỉ bằng 70% mức tăng năng suất lao động. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện tốc độ tăng lương tối thiểu đang cao hơn tăng năng suất lao động. Cụ thể, tỷ lệ tăng lương tối thiểu/năng suất lao động tăng nhanh, tăng từ 25% đến 50%.

Xu hướng này không giống với các quốc gia khác như Trung Quốc, Indonesia và Philippines. Như vậy về mặt lý thuyết, tốc độ tăng lương tối thiểu cần có những điều chỉnh, điều tiết cho phù hợp hơn.

Ông Vũ Minh Sơn - Giám đốc nhà máy sứ cao cấp Ceravi Thái Bình: Nên tạm dừng tăng lương tối thiểu vùng

doanh nghiep mac ket vi luong toi thieu

Việc tăng lương tối thiểu vùng hàng năm vẫn diễn ra, doanh nghiệp đã quen với việc này. Tuy vậy, một số doanh nghiệp dùng nhiều lao động như nhà máy sứ cao cấp Ceravi Thái Bình với hơn 300 công nhân, việc tăng lương tối thiểu sẽ làm tăng chi phí và giá thành sản phẩm.

Theo tôi, nếu được, vẫn nên tạm dừng việc tăng lương tối thiểu vùng trong 1-2 năm để doanh nghiệp lấy sức, nghiên cứu để tự động hóa và cơ khí hóa các khâu sản xuất, nhằm giảm chi phí nhân công, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.

Theo Diễn đàn doanh nghiệp

Đàm phán lương tối thiểu 2019: VCCI không tăng, Tổng LĐLĐ VN từ chối trả lời
Cuộc tranh luận vẫn chưa ngã ngũ
Đề xuất tăng lương tối thiểu vùng

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 83,700 ▲1000K 86,200 ▲500K
AVPL/SJC HCM 83,700 ▲1000K 86,200 ▲500K
AVPL/SJC ĐN 83,700 ▲1000K 86,200 ▲500K
Nguyên liệu 9999 - HN 84,700 ▲500K 85,000 ▲500K
Nguyên liệu 999 - HN 84,600 ▲500K 84,900 ▲500K
AVPL/SJC Cần Thơ 83,700 ▲1000K 86,200 ▲500K
Cập nhật: 21/11/2024 19:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 84.600 ▲600K 85.600 ▲400K
TPHCM - SJC 83.700 ▲1000K 86.200 ▲500K
Hà Nội - PNJ 84.600 ▲600K 85.600 ▲400K
Hà Nội - SJC 83.700 ▲1000K 86.200 ▲500K
Đà Nẵng - PNJ 84.600 ▲600K 85.600 ▲400K
Đà Nẵng - SJC 83.700 ▲1000K 86.200 ▲500K
Miền Tây - PNJ 84.600 ▲600K 85.600 ▲400K
Miền Tây - SJC 83.700 ▲1000K 86.200 ▲500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 84.600 ▲600K 85.600 ▲400K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.700 ▲1000K 86.200 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 84.600 ▲600K
Giá vàng nữ trang - SJC 83.700 ▲1000K 86.200 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 84.600 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 84.500 ▲600K 85.300 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 84.420 ▲600K 85.220 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 83.550 ▲600K 84.550 ▲600K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 77.740 ▲550K 78.240 ▲550K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 62.730 ▲450K 64.130 ▲450K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 56.750 ▲400K 58.150 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 54.200 ▲390K 55.600 ▲390K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 50.780 ▲360K 52.180 ▲360K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 48.650 ▲350K 50.050 ▲350K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 34.240 ▲250K 35.640 ▲250K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 30.740 ▲230K 32.140 ▲230K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 26.900 ▲200K 28.300 ▲200K
Cập nhật: 21/11/2024 19:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,380 ▲60K 8,590 ▲60K
Trang sức 99.9 8,370 ▲60K 8,580 ▲60K
NL 99.99 8,440 ▲80K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,370 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,470 ▲60K 8,600 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,470 ▲60K 8,600 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,470 ▲60K 8,600 ▲60K
Miếng SJC Thái Bình 8,370 ▲70K 8,620 ▲50K
Miếng SJC Nghệ An 8,370 ▲70K 8,620 ▲50K
Miếng SJC Hà Nội 8,370 ▲70K 8,620 ▲50K
Cập nhật: 21/11/2024 19:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,131.93 16,294.87 16,817.61
CAD 17,736.53 17,915.69 18,490.41
CHF 28,053.88 28,337.26 29,246.30
CNY 3,419.09 3,453.63 3,564.42
DKK - 3,527.97 3,663.07
EUR 26,121.19 26,385.04 27,553.41
GBP 31,339.98 31,656.54 32,672.07
HKD 3,183.18 3,215.33 3,318.48
INR - 300.37 312.38
JPY 158.28 159.87 167.48
KRW 15.71 17.46 18.94
KWD - 82,571.01 85,871.97
MYR - 5,628.58 5,751.34
NOK - 2,252.21 2,347.82
RUB - 240.71 266.47
SAR - 6,752.25 7,000.42
SEK - 2,260.53 2,356.50
SGD 18,459.42 18,645.88 19,244.03
THB 649.01 721.12 748.74
USD 25,170.00 25,200.00 25,504.00
Cập nhật: 21/11/2024 19:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,200.00 25,204.00 25,504.00
EUR 26,247.00 26,352.00 27,441.00
GBP 31,518.00 31,645.00 32,595.00
HKD 3,197.00 3,210.00 3,313.00
CHF 28,195.00 28,308.00 29,160.00
JPY 160.00 160.64 167.52
AUD 16,228.00 16,293.00 16,782.00
SGD 18,579.00 18,654.00 19,167.00
THB 715.00 718.00 748.00
CAD 17,845.00 17,917.00 18,425.00
NZD 14,684.00 15,171.00
KRW 17.41 19.11
Cập nhật: 21/11/2024 19:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25336 25336 25504
AUD 16187 16287 16855
CAD 17832 17932 18486
CHF 28353 28383 29186
CNY 0 3475.1 0
CZK 0 1011 0
DKK 0 3579 0
EUR 26274 26374 27247
GBP 31598 31648 32758
HKD 0 3266 0
JPY 161.69 162.19 168.7
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.11 0
MYR 0 5869 0
NOK 0 2284 0
NZD 0 14697 0
PHP 0 407 0
SEK 0 2300 0
SGD 18529 18659 19386
THB 0 678.6 0
TWD 0 779 0
XAU 8370000 8370000 8620000
XBJ 8000000 8000000 8620000
Cập nhật: 21/11/2024 19:45