Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Doanh nghiệp đường lo “khó chồng khó”

19:59 | 03/04/2019

Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Chưa đầy một năm nữa việc thực thi cam kết Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) đối với mặt hàng đường có hiệu lực, có nghĩa là sẽ chính thức xóa bỏ hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường. Trước tình hình này, giá đường trong nước đang lao dốc, các doanh nghiệp mía đường lo “khó chồng khó”.

Giá đường chưa có dấu hiệu cải thiện

Thời gian vừa qua, ngành mía đường đang đối diện với những “sóng gió” khi giá đường trên thị trường hiện giảm khoảng 20% so với cùng kỳ năm trước và đến nay vẫn chưa có dấu hiệu nào cho thấy sự phục hồi. Sự sụt giảm này đã khiến nhiều doanh nghiệp ngành mía đường lao đao vì lợi nhuận sụt giảm, phải đóng cửa nhà máy.

doanh nghiep duong lo kho chong kho
Theo dự báo, nguồn cung đường niên vụ 2018-2019 khoảng trên 2,2 triệu tấn

Một tên tuổi lớn trong ngành mía đường như Công ty CP Mía đường Sơn La cũng ghi nhận những tác động tiêu cực đến lợi nhuận của Công ty khi giá giảm sâu. Tính chung nửa đầu năm tài chính 2018-2019 (từ 1/7 đến 31/12/2018), doanh thu đạt 446,7 tỷ đồng, tăng đến 82% so với nửa đầu năm ngoái (đạt 245,5 tỷ đồng). Đáng nói, dù doanh thu tăng mạnh nhưng lợi nhuận sau thuế chỉ đạt 36,33 tỷ đồng, giảm 37% so với cùng kỳ.

Nguyên nhân được đại diện Công ty lý giải là do giá đường giảm sâu. Trong khi giá mật rỉ bán ra quý II/2018 tăng nhẹ, thì giá đường lại giảm tới 20% so với cùng kỳ năm trước, từ mức bình quân 12.399 đồng/kg xuống còn 9.911 đồng/kg.

Theo dự báo, nguồn cung đường niên vụ 2018-2019 khoảng trên 2,2 triệu tấn (bao gồm tồn kho hơn 600 ngàn tấn, sản xuất dự kiến 1,5 triệu tấn và đường nhập khẩu năm 2018 gần 100 ngàn tấn) trong đó chưa kể lượng đường nhập lậu vào Việt Nam khoảng 500.000 ngàn tấn và đường lậu luôn bán dưới giá thị trường đường trong nước từ 1.000 đồng đến 3.000 đồng.

Trong bối cảnh đó nguồn cung thế giới tiếp tục dư thừa khoàng 7 triệu tấn và giá đường liên tục giảm, dẫn đến tâm lý tiêu cực về bức tranh thị trường đường trong nước. Mức dư thừa này dự kiến sẽ kéo dài đến hết năm 2019, nên có thể giá sẽ giảm thấp nhất trong 5 năm qua.

Chỉ có cách doanh nghiệp tự cứu mình

Trước bức tranh kinh doanh nhiều gam màu tối của ngành, ngày 29/3/2019, trong văn bản số 41/CV-HHMĐ gửi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hiệp hội Mía đường Việt Nam (VSSA) đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có văn bản kiến nghị Bộ Công Thương trình Thủ tướng Chính phủ xem xét việc kéo dài thời gian quản lý hạn ngạch thuế quan từ 3-5 năm (tức là tiếp tục trì hoãn thực thi cam kết ATIGA với mặt hàng đường).

doanh nghiep duong lo kho chong kho
Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) có hiệu lực từ ngày 1/1/2020

Hiệp hội Mía đường Việt Nam cho biết, nếu không có giải pháp tháo gỡ khó khăn, nhiều nhà máy đường đứng trước nguy cơ thua lỗ nặng. Thực trạng trên không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến niên vụ 2018/2019 mà còn dẫn đến những năm tiếp theo của ngành mía đường khi Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) có hiệu lực từ ngày 1/1/2020.

Trước đó, liên quan đến thực thi cam kết ATIGA đối với mặt hàng đường, ngày 20/2/2019, Bộ Công Thương đã có văn bản số 1034/BCT-XNK, đề nghị Hiệp hội Mía đường Việt Nam thông báo rộng rãi tới các doanh nghiệp thành viên, kể từ ngày 1/1/2020 sẽ chính thức xóa bỏ hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường theo cam kết ATIGA, để các doanh nghiệp mía đường chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh phù hợp bối cảnh mới.

Với tinh thần này, tại cuộc làm việc với Hiệp hội Mía đường Việt Nam và một số doanh nghiệp mía đường ngày 8/3/2019, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh cho rằng, việc trì hoãn thực thi cam kết ATIGA đối với mặt hàng đường đến 1/1/2020 là một việc làm chưa có tiền lệ của Việt Nam trong thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế, thể hiện sự quan tâm rất lớn của Chính phủ, của Bộ Công Thương đối với ngành mía đường.

“Thời điểm 1/1/2020 dỡ bỏ hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đường theo cam kết ATIGA là không thể trì hoãn thêm được nữa, các doanh nghiệp mía đường cần phải có các phương án sản xuất, kinh doanh thích ứng với bối cảnh mới” - Thứ trưởng Khánh nhấn mạnh.

Trong bối cảnh ngành đường Việt Nam còn nhiều bất cập về vùng nguyên liệu, tập quán canh tác… khiến giá thành sản xuất mía cao hơn so với các nước khác, việc hội nhập với thị trường trong khu vực và thế giới là xu thế tất yếu không thể đảo ngược. Môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt cũng là chất xúc tác để các nhà máy đường nhìn nhận lại mình, tự đổi mới, chú trọng gia tăng tỷ lệ cơ giới hoá trên đồng ruộng, liên kết chặt chẽ hơn với nông dân trồng mía.

Lê Minh

doanh nghiep duong lo kho chong khoVSSA hiến kế các giải pháp cứu nguy cho các doanh nghiệp mía đường
doanh nghiep duong lo kho chong khoDoanh nghiệp mía đường đang là "con nợ" của người trồng mía

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 80,500 84,000
AVPL/SJC HCM 80,500 84,000
AVPL/SJC ĐN 80,500 84,000
Nguyên liệu 9999 - HN 80,500 82,400
Nguyên liệu 999 - HN 80,400 82,300
AVPL/SJC Cần Thơ 80,500 84,000
Cập nhật: 13/11/2024 00:47
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 81.200 82.800
TPHCM - SJC 80.500 84.000
Hà Nội - PNJ 81.200 82.800
Hà Nội - SJC 80.500 84.000
Đà Nẵng - PNJ 81.200 82.800
Đà Nẵng - SJC 80.500 84.000
Miền Tây - PNJ 81.200 82.800
Miền Tây - SJC 80.500 84.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 81.200 82.800
Giá vàng nữ trang - SJC 80.500 84.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 81.200
Giá vàng nữ trang - SJC 80.500 84.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 81.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 81.100 81.900
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 81.020 81.820
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 80.180 81.180
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 74.620 75.120
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 60.180 61.580
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 54.440 55.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 51.990 53.390
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 48.710 50.110
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 46.660 48.060
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 32.820 34.220
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 29.460 30.860
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 25.780 27.180
Cập nhật: 13/11/2024 00:47
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,960 8,340
Trang sức 99.9 7,950 8,330
NL 99.99 7,980
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 7,950
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,050 8,400
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,050 8,350
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,050 8,350
Miếng SJC Thái Bình 8,080 8,430
Miếng SJC Nghệ An 8,080 8,430
Miếng SJC Hà Nội 8,080 8,430
Cập nhật: 13/11/2024 00:47

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,165.07 16,328.35 16,852.24
CAD 17,697.14 17,875.90 18,449.44
CHF 28,019.46 28,302.49 29,210.57
CNY 3,414.92 3,449.41 3,560.09
DKK - 3,545.49 3,681.27
EUR 26,248.79 26,513.93 27,688.14
GBP 31,616.57 31,935.93 32,960.58
HKD 3,175.15 3,207.23 3,310.13
INR - 299.47 311.44
JPY 158.95 160.55 168.19
KRW 15.57 17.30 18.77
KWD - 82,230.59 85,518.36
MYR - 5,653.88 5,777.21
NOK - 2,244.02 2,339.30
RUB - 246.19 272.53
SAR - 6,727.40 6,996.38
SEK - 2,281.30 2,378.17
SGD 18,474.23 18,660.84 19,259.57
THB 643.43 714.93 742.31
USD 25,130.00 25,160.00 25,480.00
Cập nhật: 13/11/2024 00:47
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,110.00 25,140.00 25,480.00
EUR 26,433.00 26,539.00 27,662.00
GBP 31,939.00 32,067.00 33,062.00
HKD 3,189.00 3,202.00 3,309.00
CHF 28,193.00 28,306.00 29,175.00
JPY 160.64 161.29 168.45
AUD 16,319.00 16,385.00 16,895.00
SGD 18,632.00 18,707.00 19,246.00
THB 713.00 716.00 746.00
CAD 17,842.00 17,914.00 18,446.00
NZD 14,849.00 15,356.00
KRW 17.32 19.04
Cập nhật: 13/11/2024 00:47
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25220 25220 25480
AUD 16226 16326 16897
CAD 17810 17910 18462
CHF 28309 28339 29142
CNY 0 3467.1 0
CZK 0 1028 0
DKK 0 3648 0
EUR 26477 26577 27452
GBP 32006 32056 33159
HKD 0 3240 0
JPY 161.51 162.01 168.52
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.8 0
LAK 0 1.095 0
MYR 0 5952 0
NOK 0 2294 0
NZD 0 14866 0
PHP 0 407 0
SEK 0 2336 0
SGD 18559 18689 19411
THB 0 673.4 0
TWD 0 782 0
XAU 8200000 8200000 8400000
XBJ 7900000 7900000 8400000
Cập nhật: 13/11/2024 00:47