Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 5)

11:00 | 14/11/2022

Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Thị trường của ngành công nghiệp dầu lửa sẽ dịch chuyển nhanh chóng. Và gần như cùng lúc, bản đồ khai thác của ngành công nghiệp dầu lửa Mỹ cũng sẽ biến đổi chóng mặt, và các đối thủ Mỹ mới sẽ xuất hiện, thách thức vị trí thống lĩnh của Standard.

CHƯƠNG 4: THẾ KỶ MỚI

"Ngôi nhà cổ" là từ mà một số công ty dầu mỏ độc lập dùng để gọi Standard Oil. Công ty này đã vươn cao như một tòa nhà khổng lồ và uy nghi, đổ bóng về mọi phía, thống trị mọi ngóc ngách của ngành công nghiệp dầu lửa Mỹ. Trong khi các đối thủ cạnh tranh nước ngoài đang thách thức "Ngôi nhà cổ" ở các thị trường bên ngoài nước Mỹ, thì thị trường trong nước lại có phần cam chịu chấp nhận. Dường như việc cuối cùng Standard Oil sẽ sở hữu và kiểm soát tất cả mọi thứ là điều không thể tránh khỏi.

Tuy nhiên, những gì diễn ra trong thập niên 1890 và thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX sẽ đe dọa vị trí vượt trội của "Ngôi nhà cổ". Thị trường của ngành công nghiệp dầu lửa sẽ dịch chuyển nhanh chóng. Và gần như cùng lúc, bản đồ khai thác của ngành công nghiệp dầu lửa Mỹ cũng sẽ biến đổi chóng mặt, và các đối thủ Mỹ mới sẽ xuất hiện, thách thức vị trí thống lĩnh của Standard. Không chỉ thế giới, mà chỉ riêng nước Mỹ, cũng sẽ trở nên quá rộng lớn, thậm chí là đối với Standard Oil.

dau mo tien bac va quyen luc 5
Nhà máy lọc dầu của Standard Oil tại Richmond- California

Những thị trường bị mất và giành được Cuối thế kỷ XIX, dầu hỏa, khí đốt và nến là những nhiên liệu đáp ứng nhu cầu nguồn ánh sáng nhân tạo của con người. Các nhà máy địa phương sản xuất khí đốt từ than hoặc dầu hoặc trực tiếp khai thác và vận chuyển khí đốt tự nhiên. Tất cả ba loại chất đốt này – dầu hỏa, khí đốt và nến – cùng có những vấn đề nghiêm trọng như nhau. Chúng tạo ra muội, bụi và hơi nóng. Chúng ngốn ôxy và luôn tiềm ẩn nguy cơ gây hỏa hoạn. Vì lý do này, nhiều tòa nhà, bao gồm cả tòa nhà Gore Hall, thư viện của Đại học Harvard, không được chiếu sáng bằng những nhiên liệu này. Sự thống trị của dầu hỏa, khí đốt và nến cũng không kéo dài.

Năm 1877, Thomas Alva Edison – phát minh ra bóng đèn điện. Chỉ trong hai năm, ông đã phát triển được loại bóng đèn nóng sáng chịu nhiệt. Đối với Edison, phát minh không chỉ là niềm đam mê, mà còn là công việc làm ăn. Ông từng viết: "Chúng tôi sẽ liên tục tạo ra những thứ có giá trị thương mại – đó là mục tiêu của phòng thí nghiệm này. Chúng tôi không thể giống như vị giáo sư Đức già nua, người chỉ cần có bánh mì đen và bia để dành cả cuộc đời nghiên cứu những cái lông tơ trên thân con ong".

Ngay lập tức, Edison chuyên tâm vào việc thương mại hóa phát minh bóng đèn điện của ông, và trong quá trình này, ông đã phát minh ra máy phát điện. Thậm chí, Edison còn rất thận trọng trong việc định giá điện sao cho giá của nó có khả năng cạnh tranh cao. Ông đã xây dựng một dự án thuyết minh sản phẩm của mình ở khu Hạ Manhattan, một khu vực bao gồm cả Phố Wall. Năm 1882, từ văn phòng của ông chủ nhà băng J. P. Morgan mà ông có quan hệ làm ăn, Edison bật công tắc, khởi động máy phát điện và mở cánh cửa không chỉ của một ngành công nghiệp mới mà còn của một phát minh sẽ làm biến đổi cả thế giới. Điện đem lại thứ ánh sáng siêu việt, điện không cần người sử dụng phải chăm sóc, và người ta không thể cưỡng lại sức hấp dẫn của điện.

Đến năm 1885, có 250.000 bóng đèn điện được sử dụng và năm 1902, con số này đã là 18 triệu. "Ánh sáng mới" giờ đây là ánh sáng từ điện chứ không phải từ dầu hỏa. Các công ty cung cấp khí đốt tự nhiên phải chuyển sang cung cấp khí đốt cho các mục đích sưởi ấm và nấu bếp. Trong khi đó, thị trường dầu hỏa ở Mỹ, thị trường chủ lực của ngành công nghiệp dầu lửa, ngừng tăng trưởng và ngày càng thu hẹp lại tại khu vực nông thôn. Công nghệ mới này cũng nhanh chóng được chuyển sang châu Âu.

Năm 1882, một hệ thống chiếu sáng bằng điện đã được lắp đặt tại nhà ga Holborn Viaduct ở London. Điện và các công nghệ liên quan đã thâm nhập Berlin nhanh chóng và sâu rộng đến nỗi người ta gọi thành phố này là Elektropolis (Đô thị điện). Sự phát triển của điện ở London diễn ra bừa bãi và vô tổ chức hơn. Đầu thế kỷ XX, London có 65 nhà máy cung cấp điện khác nhau. "Người London có thể dùng bánh mì trong bữa sáng được nướng bằng điện của một nhà máy này, dùng điện chiếu sáng trong văn phòng của họ bằng điện của một nhà máy khác, đến gặp các cộng sự trong những tòa nhà văn phòng gần đó, nơi sử dụng một loại điện khác, và đi bộ trên phố để về nhà dưới những ngọn đèn lại sử dụng một loại điện khác nữa". Đối với những người được tiếp cận điện, năng lượng này là một ân huệ lớn. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của điện là một mối đe dọa sâu sắc với ngành công nghiệp dầu lửa, và đặc biệt là "Ngôi nhà cổ".

Tương lai mà Standard Oil – với khối đầu tư khổng lồ vào khai thác dầu, lọc dầu, xây dựng đường ống, các kho chứa và hệ thống phân phối – sẽ phải đối mặt nếu mất đi thị trường chính của, thị trường chất đốt là gì? Tuy nhiên, ngay khi một thị trường đang chuẩn bị mất đi thì một thị trường mới lại được mở ra – thị trường nhiên liệu cho loại "xe kéo không dùng ngựa," nói cách khác, chính là ôtô. Một vài loại xe như vậy chạy bằng động cơ đốt trong, loại động cơ sử dụng nhiên liệu là xăng để tạo ra lực đẩy cho xe chạy. Là loại phương tiện giao thông gây nhiều tiếng ồn, có khí thải độc hại và không đáng tin cậy cho lắm, nhưng xe gắn động cơ đốt trong đã giành được sự tín nhiệm ở châu Âu sau cuộc đua Paris-Bordeaux-Paris năm 1895. Trong cuộc đua này, có xe tham dự đạt tới vận tốc đáng kể là 15 dặm/giờ.

Năm sau đó, cuộc đua ôtô đầu tiên diễn ra tại vịnh Narragansett, bang Rhode Island. Đây là một cuộc đua chậm chạp và buồn tẻ đến nỗi khán giả phải kêu lên: "Kiếm một con ngựa đi!" Mặc dù vậy, ở Mỹ cũng như ở châu Âu, xe không do ngựa kéo nhanh chóng thu hút sự chú ý của các nhà phát minh có đầu óc kinh doanh. Một người trong số này là kỹ sư trưởng của Công ty chiếu sáng Edison ở Detroit. Ông đã bỏ việc để tập trung vào việc thiết kế, sản xuất và đưa ra thị trường một loại xe chạy bằng xăng mang tên ông – xe Ford. Chủ nhân đầu tiên của chiếc xe đầu tiên do Henry Ford sản xuất đã bán lại chiếc xe này cho một người khác là A. W. Hall và ông này nói với Ford mình đã bị cuốn vào "cơn sốt xe không ngựa". Hall xứng đáng có một vị trí đặc biệt trong trái tim của những người sử dụng xe hơi trong tương lai, với tư cách là chủ nhân đầu tiên được ghi nhận của một chiếc xe hơi đã qua sử dụng.

Đến năm 1905, xe hơi chạy bằng xăng đã đánh bại các đối thủ chạy bằng hơi nước và điện về mức độ tự động, đồng thời thiết lập được vị trí bá chủ toàn diện của mình. Tuy nhiên, người ta vẫn băn khoăn về độ khó sử dụng và mức độ tin cậy của loại xe này. Nhưng một lần rồi mãi mãi, những câu hỏi này đã bị đẩy lui bởi trận động đất xảy ra ở San Francisco năm 1906. Khi đó, 200 chiếc xe hơi tư nhân đã được huy động cho việc giải cứu và tiếp tế hay bằng 15.000 gallon xăng do Standard Oil tài trợ.

Quyền giám đốc cơ quan cứu hỏa của San Francisco, người đã chỉ huy ba chiếc xe làm việc suốt ngày đêm, phát biểu: "Trước khi trận động đất này xảy ra, tôi đã nghi ngờ ôtô. Nhưng bây giờ, tôi thật tâm đánh giá cao loại xe này". Cũng trong năm đó, một nhà báo hàng đầu đã viết, ôtô "không còn là một chủ đề cho những người thích đùa nữa, và hiếm khi chúng ta còn nghe thấy câu nói nhạo báng: "Kiếm một con ngựa đi!". Thậm chí còn hơn thế, xe hơi đã trở thành một biểu tượng của địa vị. Một nhà văn viết: "Ôtô là thần tượng của thời hiện đại. Người đàn ông sở hữu một chiếc xe hơi không chỉ có được những niềm vui du ngoạn, mà còn cả sự ngưỡng mộ của đám đông đi bộ, và… là một vị thánh đối với phụ nữ".

Sự phát triển của ngành công nghiệp xe hơi là một hiện tượng đáng kinh ngạc. Lượng ôtô đăng ký tại Mỹ tăng từ 8.000 xe năm 1900 lên 902.000 xe năm 1912. Trong một thập kỷ, từ chỗ là một sản phẩm mới, ôtô đã trở thành một vật quen thuộc, làm biến đổi bộ mặt và tập tục của xã hội hiện đại. Và xe hơi hoàn toàn phụ thuộc vào dầu. Từ trước tới giờ, xăng chỉ là một sản phẩm không quan trọng của quá trình lọc hóa dầu, với giá trị khiêm tốn là làm một số loại dung môi và nhiên liệu đốt lò. Còn đối với các mục đích sử dụng khác, xăng không có giá trị gì.

Năm 1892, một người làm trong ngành công nghiệp dầu lửa đã tự chúc mừng khi bán được xăng với giá khoảng 2 xu/gallon. Nhưng điều này đã thay đổi với sự xuất hiện của ôtô, loại phương tiện giao thông đã biến xăng thành thứ nhiên liệu ngày càng có giá trị. Ngoài thị trường xăng, một thị trường lớn thứ hai cho dầu lửa cũng đang phát triển cùng với việc dầu nhiên liệu ngày càng được sử dụng nhiều cho nồi hơi trong các nhà máy, tàu hỏa và tàu thủy. Tuy nhiên, khi câu hỏi gây lo lắng về vấn đề thị trường trong tương lai cho dầu lửa đang được nhanh chóng giải quyết thì một câu hỏi bi quan mới lại nổi lên: Lấy đâu ra nguồn cung để cung cấp đủ cho những thị trường đang bùng nổ này? Sản lượng dầu của Pennsylvania đã giảm xuống. Mỏ dầu Lima ở bang Ohio và Indiana không thể tương xứng với thị trường. Liệu có thể tìm thấy các mỏ dầu mới không? Và tìm kiếm ở đâu? Và ai sẽ là người kiểm soát những mỏ dầu đó?

Những cuộc vượt ngục

Địa vị của Standard Oil trong ngành công nghiệp dầu lửa đã bắt đầu bị lung lay trước khi thế kỷ XIX kết thúc. Cuối cùng, một số công ty sản xuất và cung cấp dầu lửa đã có thể thoát khỏi gọng kìm của các hệ thống đầu mối, đường ống và nhà máy lọc dầu của Standard để giành lấy sự độc lập thật sự ở mức độ nhất định.

Vào đầu thập niên 1890, một nhóm công ty dầu mỏ độc lập ở Pennsylvania đã hợp tác với các công ty lọc dầu để thành lập Công ty dầu mỏ của các nhà sản xuất và lọc dầu. Nhận thấy sẽ không thể có được cơ hội thắng "Ngôi nhà cổ" thật sự nếu không tìm ra cách đưa dầu ra khỏi Vùng đất dầu và tới khu vực bờ biển với mức giá cạnh tranh, công ty mới này đã tiến hành xây dựng đường ống riêng. Những công nhân xây dựng đường ống này phải đương đầu với những cuộc tấn công vũ trang của các công nhân đường sắt, cũng như hơi nước, nước nóng và than nóng đổ xuống người họ từ các đầu máy xe lửa. Những trở ngại này có thể chính là "bàn tay đeo găng" của Standard Oil. Nhưng cuối cùng đường ống này cũng đã được xây dựng.

Năm 1895, những công ty độc lập khác nhau này đã thành lập Công ty Pure Oil để tổ chức phát triển thị trường ở nước ngoài và tại khu vực Bờ Đông. Pure Oil được xây dựng như một tờ-rớt, với các ủy viên quản trị được chỉ định là "các nhà quán quân của tự do". Theo thói quen, Standard Oil kiên trì tìm cách mua lại và giành quyền kiểm soát các bộ phận cấu thành của Pure Oil. Tuy nhiên, mặc dù đã có một số cuộc điện thoại bí mật, Standard cũng không thể đạt được mục đích trên. Và chỉ trong vòng một vài năm, Pure Oil đã phát triển thành một công ty hợp nhất hoàn toàn có những thị trường xuất khẩu lớn. Mặc dù Pure Oil vẫn là một công ty nhỏ so với gã khổng lồ Standard, song các nhà sản xuất và lọc hóa dầu độc lập cuối cùng đã biến giấc mơ của mình thành hiện thực. Họ đã thành công trong việc thách thức Standard Oil và cách ly họ khỏi tổ chức này.

Còn Standard Oil, không còn lựa chọn nào khác, buộc phải tự thích nghi với thực tế không mấy dễ chịu về cuộc cạnh tranh căng thẳng và dài lâu ở thị trường trong nước. Tuy nhiên, các hoạt động của công ty Pure Oil hoàn toàn diễn ra tại Pennsylvania. Theo lẽ thường, dầu lửa là một hiện tượng tại miền Đông nước Mỹ và mọi người luôn thấy bi quan mỗi khi bàn về những nguồn cung mới. Tuy nhiên, những mỏ dầu mới vẫn được phát hiện về phía Đông, ngang qua đại lục Bắc Mỹ, tại bang Colorado và Kansas. Có một vùng đất thậm chí còn xa hơn về phía Tây, ngang qua dãy núi Rockies, bang California. Nhựa asphalt rò rỉ và nhựa tarpit là những dấu hiệu cho thấy nơi này có khả năng có dầu.

Vào thập niên 1860, hoạt động xúc tiến khai thác dầu lửa diễn ra mạnh mẽ ở Bắc Los Angeles. Benjamin Silliman Con, người đã tán thành dự án của George Bissell và "Đại tá" Drake vào những năm 1850, đồng thời cũng là một người luôn kiếm việc làm thêm, đã nhận làm tư vấn cho nhiều dự án xúc tiến khai thác dầu lửa ở California. Vị giáo sư danh tiếng của Đại học Yale này không kiềm chế sự hăng hái của mình. Giá trị của một nông trại "là sự giàu có gần như hoang đường trên mỏ dầu tốt nhất", ông viết. Còn giá trị của một nông trại khác "là khối lượng dầu có thể khai thác ở đây gần như không có giới hạn".

Tuy nhiên, nghiên cứu của Silliman không chính xác tuyệt đối. Mặc dù ông đã tới một vài nơi trong số những khu vực mà ông đưa ra đánh giá song những khu vực khác ông mới chỉ nhìn thấy từ xe ngựa khi đi từ Los Angeles tới. Thậm chí, có khu vực ông còn chưa đặt chân tới bao giờ. Lý do khiến các cuộc thí nghiệm của ông cho thấy khả năng có dầu cao tới mức như vậy là vì mẫu dầu ông phân tích đã được trộn thêm loại dầu tinh lọc hạng nhất của Pennsylvania, được lấy từ kệ hàng của một bách hóa tổng hợp ở Nam California.

Cuối thập niên 1860, sự bùng nổ hoạt động khai thác dầu ở Los Angeles đã lắng xuống, khiến triển vọng dầu lửa của California mờ đi. Danh tiếng của Giáo sư Silliman thậm chí còn bị ảnh hưởng thậm tệ hơn. Cảm thấy quá mất mặt và thất thế, người từ trước đến nay vẫn là một trong những nhân vật ưu tú nhất của nền khoa học Mỹ buộc phải từ chức giáo sư hóa học tại Đại học Yale. Tuy nhiên, chỉ khoảng một thập kỷ sau, Silliman gần như được minh oan. Một sản lượng dầu khiêm tốn đã được khai thác tại những khu vực mà ông đánh giá – ở hạt Ventura và phía bắc thung lũng San Fernado miền Bắc Los Angeles, một thị trấn khi đó chỉ có 8.000 người. Nhiều người từng lo ngại rằng dầu lửa giá rẻ từ nước ngoài sẽ tràn vào Mỹ, với sự trợ giúp của chính sách xóa bỏ thuế nhập khẩu dầu, và như thế, sẽ chèn ép ngành công nghiệp dầu lửa địa phương của California. Tuy nhiên, nhờ các biện pháp can thiệp chính trị tài tình, thuế nhập khẩu dầu đã không bị hạ xuống mà thậm chí còn tăng gấp hai lần.

Đầu thập niên 1890, mỏ dầu lớn đầu tiên, mỏ Los Angeles, đã được phát hiện. Rồi sau đó, có thêm nhiều mỏ dầu lớn nữa được tìm thấy ở thung lũng San Joaquin của California. Sản lượng dầu lửa của California tăng lên nhanh chóng, từ mức 470.000 thùng năm 1893 lên mức 24 triệu thùng năm 1903. Gần 12 năm sau đó, California trở thành khu vực sản xuất dầu hàng đầu của nước Mỹ. Tới năm 1910, sản lượng dầu lửa của bang này đạt con số 73 triệu thùng, cao hơn sản lượng của bất kỳ quốc gia nào, chiếm tới 22% tổng sản lượng toàn thế giới. Hãng sản xuất dầu lửa lớn nhất ở California là Union Oil (hiện nay là Unocal). Đây là tập đoàn dầu mỏ lớn duy nhất ở Mỹ, ngoài Standard Oil, đã liên tục duy trì sự tồn tại độc lập từ năm 1890 với tư cách một công ty dầu mỏ hợp nhất lớn.

Union và các công ty quy mô nhỏ hơn của California luôn có ác cảm đối với các nhà địa chất chuyên nghiệp. Điều này rất khác biệt với quan điểm của các hãng dầu lửa tại các khu vực khác của Mỹ. Thực tế, nghề địa chất dầu lửa bắt nguồn từ chính California. Từ năm 1900 đến năm 1911, các công ty ở California đã thuê 40 nhà địa chất, một con số có thể lớn hơn so với số nhà địa chất được thuê trên toàn bộ các bang khác của nước Mỹ, thậm chí tại tất cả các nước trên thế giới gộp lại. Mặc dù né tránh gọng kìm của Standard, Union Oil vẫn mở rộng được tầm kiểm soát đối với hoạt động phát triển thị trường và phân phối dầu lửa ở khu vực phía Tây.

Năm 1907, hoạt động dưới tên gọi Standard Oil của California, công ty này bắt đầu tiến thẳng vào lĩnh vực khai thác dầu. Mặc dù đến đầu thế kỷ XX, California đã trở thành một bang sản xuất dầu lớn, nhưng bang này khá xa xôi và cách biệt so với các bang còn lại của Mỹ. Ngoài ra, các thị trường bên ngoài của ngành công nghiệp dầu lửa tại bang này nằm ở châu Á chứ không phải ở sườn đông của dãy Rockies, nơi tập trung phần lớn công dân Mỹ. Ở góc độ kinh doanh, có thể coi California là một quốc gia khác. Vì thế, người ta cần phải đi tìm câu trả lời cho cơn khát dầu đang tăng cao tại phần còn lại của nước Mỹ ở nơi khác.

Giấc mơ của Patillo Higgins

Có một ý tưởng đã ám ảnh Patillo Higgins, một thợ cơ khí bị mất một tay, kiêm nhà buôn gỗ, một người tự học. Ông tin rằng có thể tìm thấy dầu lửa dưới ngọn đồi ở giữa đồng bằng ven biển gần thị trấn nhỏ Beaumont, phía đông nam Texas. Đó là một nơi cách cảng Arthur trên hồ Sabine nối liền với vịnh Mexico khoảng 15 dặm. Ý tưởng này xuất hiện khi Higgins dẫn lớp học ngày chủ nhật của mình ở trường đạo Baptist tới dạo chơi tại ngọn đồi này. Ông đã đi qua sáu con suối nhỏ sủi đầy bong bóng khí. Ông thọc gậy xuống đất ở khu vực này và châm lửa vào luồng khí thoát ra. Lũ trẻ rất tò mò, thích thú. Người ta gọi ngọn đồi này là Spindletop, sau khi có tin đồn là ở đó có một loại cây trông giống như chiếc nón lật ngược. Higgins thì gọi đây là Đồi Lớn và không thể nào gạt những suy nghĩ về nơi này khỏi đầu mình. Về sau, ông cho biết, những viên đá nhỏ mà ông nhặt từ những con suối kia mách bảo ông rằng, đó là một mỏ dầu. Hoàn toàn tin chắc là ở Đồi Lớn có dầu lửa, Higgins đặt mua một cuốn sách về địa chất và hăm hở đọc.

Năm 1892, ông thành lập Công ty dầu, khí và sản xuất Gladys, theo tên một cô bé trong lớp học ở trường dòng của ông. Công ty của Higgins có thư tiêu đề thật ấn tượng – một bức phác thảo 24 thùng dầu, các ống khói đang nhả khói của 12 nhà máy, và nhiều tòa nhà xây bằng gạch. Tuy nhiên, những nỗ lực của công ty này đều thất bại. Những cố gắng tiếp tục của Higgins cũng không thành công. Hoạt động sản xuất dầu nhỏ lẻ mới chỉ bắt đầu đâu đó ở Texas. Các quan chức của thị trấn nhỏ Corsicana kết luận rằng việc thiếu nước sẽ làm tiêu tan những hy vọng việc thúc đẩy sự phát triển thương mại của họ. Họ mở một công ty nước và bắt đầu khoan giếng vào năm 1893.

Ban đầu, họ thất vọng vì chỉ khoan được dầu. Sau đó, nỗi thất vọng này nhanh chóng chuyển thành niềm hân hoan và có thêm nhiều giếng nữa được khoan. Ngành công nghiệp dầu lửa của Texas ra đời. Ở Corsicana, một phương pháp mới và hiệu quả hơn là khoan xoay do các nhà thầu khoan giếng nước chuyển giao, đã được áp dụng để khoan tìm dầu. Nhưng sản lượng dầu của thị trấn này vẫn thấp, cho tới năm 1900, nơi đây mới khai thác được 2.300 thùng dầu mỗi ngày. Trong khi đó, ở Beaumont, Patillo Higgins không chịu từ bỏ giấc mơ của mình và vẫn tiếp tục xúc tiến tìm dầu ở Spindletop. Nhiều nhà địa chất đã đi tàu hỏa tới Beaumont, xem xét triển vọng của vùng này và tuyên bố ý tưởng của Higgins là vớ vẩn. Tuy nhiên, Higgins vẫn không nao núng, ông lấy khí từ Đồi Lớn vào hai thùng chứa dầu 5 gallon và dùng để đốt một ngọn đèn ở nhà. Bạn bè của ông ở thị trấn cho rằng ông ảo tưởng và có lẽ đã bị điên. Nhưng Higgins vẫn kiên quyết theo đuổi giấc mơ của mình.

Trong nỗi tuyệt vọng, ông đăng quảng cáo tuyển người khoan tìm dầu trên một tờ tạp chí. Chỉ có một người trả lời mẩu quảng cáo của Higgins. Đó là Đại tá Anthony F. Lucas. Sinh ra tại vùng bờ biển Dalmatian của đế chế Áo - Hung và được đào tạo trở thành kỹ sư, Lucas đã gia nhập Hải quân Áo và sau đó nhập cư vào Mỹ. Ông có nhiều kinh nghiệm đánh giá triển vọng của các cấu trúc địa chất được gọi là đồi muối trong việc dò tìm các mỏ muối và lưu huỳnh. Và Đồi Lớn là một đồi muối. Lucas và Higgins ký một thỏa thuận và năm 1899, vị đại tá bắt đầu việc khoan tìm.

Những nỗ lực đầu tiên của ông không được đền đáp. Càng có thêm nhiều nhà địa chất chuyên nghiệp nhạo báng ý tưởng của Lucas. Họ nói với ông rằng ông đang phí phạm thời gian và tiền bạc, rằng sẽ không có cơ hội tìm thấy dầu trên một đồi muối. Lucas không thể thuyết phục họ rằng điều ngược lại sẽ xảy ra. Ông thất vọng trước thái độ khinh miệt của các nhà địa chất chuyên nghiệp đối với điều mà ông gọi là "viễn cảnh" của mình. Niềm tin của ông bị dao động. Ông hết tiền và cần thêm vốn để tiếp tục tìm kiếm dầu. Standard Oil đã lắng nghe ông nhưng sau đó lại đẩy ông ra với hai bàn tay trắng. Không còn nơi nào khác để đi, Lucas đến Pittsburgh tìm gặp công ty Guffey & Galey, công ty thành công nhất tại nước Mỹ trong lĩnh vực mạo hiểm thăm dò dầu ở những khu vực không chắc có dầu. Họ là niềm hy vọng cuối cùng của ông.

Vào thập niên 1890, James Guffey và John Galey đã phát hiện ra mỏ dầu lớn đầu tiên ở khu vực giữa của đại lục Bắc Mỹ, tại bang Kansas. Sau đó, mỏ dầu này được bán lại cho Standard Oil. Galey là người mạo hiểm trong lĩnh vực thăm dò dầu, một nhà thám hiểm thật sự. Một đối tác kinh doanh sau này đã nhận định: "John Galey đã bị ngành công nghiệp dầu lửa bỏ bùa mê". Về phần mình, Galey có khả năng tìm dầu đáng kinh ngạc. Mặc dù ông chú trọng việc học tập và áp dụng các lý thuyết địa chất hồi đó, một số người cùng thời với ông cho rằng, ông có thể ngửi thấy dầu theo đúng nghĩa đen của từ này. Là một người ít nói và trầm tĩnh, Galey rất quyết tâm và săn tìm dầu không biết mệt mỏi. Thật ra, cuộc kiếm tìm kho báu này có ý nghĩa với ông nhiều hơn so với bản thân kho báu đó. Còn James Guffey là một người khoa trương hơn. Người đàn ông từng giữ chức chủ tịch Đảng Dân chủ này ăn mặc như Buffalo Bill và thậm chí còn có một mái tóc bạch kim dài dưới chiếc mũ đen rộng vành. Như một vị khách người Anh đã nói, ông "điển hình cho một kiểu người Mỹ được mọi người chấp nhận". Một ấn phẩm về dầu lửa đương thời của Mỹ có cách nhìn nhận hơi khác về Guffey. "Ngay từ đầu, nghị lực và lòng quyết tâm đã làm nên những đặc trưng trong các hoạt động của ông. Và kể cả lúc đó hay bây giờ, ông vẫn chưa đi tới thời điểm của cuộc đời mà ở đó, ông tự bằng lòng với việc đi lại bằng xe lửa chở hàng, nếu như sẽ có một loại tàu tốc hành hay máy bay nào đó". Guffey là một nhà xúc tiến kinh doanh và đàm phán thỏa thuận. Về mặt này, ông đã mặc cả rất rắn với Lucas. Để đổi lấy sự hậu thuẫn tài chính của Guffey và Galey, Đại tá Lucas chỉ có thể giữ lại 1/8 lượng dầu khai thác được. John Galley tới Beaumont và khảo sát khu vực Đồi Lớn. Ông chọn một điểm gần những con suối nhỏ với bong bóng khí sủi lên mà Patillo Higgins đã tìm thấy để khoan tìm dầu. Ông cắm cọc đánh dấu điểm này. Khi đó, Lucas đã đi vào thị trấn thuê thợ khoan, Galey quay sang vợ Lucas và nói: "Hãy bảo ngài đại tá của bà bắt đầu khoan giếng đầu tiên ở đúng chỗ này nhé. Và bảo ông ấy rằng tôi biết ông ấy sẽ đào được giếng dầu lớn nhất ở phía bên này của Baku đấy".

Mùa thu năm 1900, việc khoan dầu bắt đầu với công nghệ khoan xoay đã được sử dụng lần đầu ở Corsicana. Cư dân ở Beaumont khá tin tưởng rằng cả Lucas và người của ông ở đây, cũng giống như Patillo Higgins, đang bị điên và không đáng để ý đến. Các thợ khoan đã khoan qua gần trăm mét toàn cát và cảm thấy thất vọng. Khi đạt tới độ sâu khoảng 105 mét thì dầu xuất hiện. Đại tá Lucas vui mừng hỏi Al Hamill, trưởng nhóm thợ khoan, xem liệu giếng dầu này sẽ đem lại sản lượng bao nhiêu. Nghĩ tới những giếng dầu ở Corsicana mà ông biết có thể có sản lượng 22 thùng mỗi ngày, Hamill trả lời rằng giếng này dễ dàng khai thác được 50 thùng một ngày. Những người thợ khoan nghỉ lễ Giáng sinh rồi lại tiếp tục công việc mệt nhọc trong ngày đầu tiên của năm mới 1901.

Ngày 10 tháng 1, sự kiện đáng ghi nhớ đã xảy ra: bong bóng sủi lên từ bùn ở dưới giếng với một áp lực cực lớn. Sau vài giây, sáu tấn ống khoan bay ngược lên mặt đất, đập vào giàn khoan, làm sập mái, rồi tiếp tục văng lên, phá vỡ các mối nối. Rồi tất cả rơi vào im lặng. Đám thợ khoan, những người đã bỏ chạy tán loạn để giữ mạng sống và không chắc là mình đã nhìn thấy điều gì, thậm chí nếu họ đã thật sự nhìn thấy, rón rén lại gần chỗ giàn khoan để nhìn đống đổ nát khủng khiếp với những mảnh vỡ và bùn, trên nền của giàn khoan. Khi bọn họ bắt đầu dọn dẹp đống đổ vỡ này, bùn từ dưới giếng lại phun lên, ban đầu, với âm thanh của một phát súng đại bác, rồi tiếp đó là một tiếng gầm inh tai nhức óc. Khí gas, rồi đến dầu, bắt đầu trào ra. Dầu có màu xanh lá và trọng lượng nặng, phun lên với một áp lực liên tục tăng dần, ném đất đá lên cao hàng chục mét trong không trung. Dòng dầu phun trào mỗi lúc một mạnh và có chiều cao gấp đôi so với chiều cao của giàn khoan. Sau khi phun tới độ cao tối đa, dầu lại đổ xuống mặt đất.

Đại tá Lucas nghe được tin này khi đang ở trong thị trấn. Ông quất ngựa phi như bay trên chiếc xe kéo bốn bánh. Khi về tới nơi, ông nhảy ra khỏi xe và lăn xuống đất. Rồi ông đứng dậy, cố nín thở và chạy tới chỗ giàn khoan. "A! A! Cái gì thế?", Lucas hét ầm lên. "Dầu, Đại tá ạ!" Hamill trả lời. "Dầu, mỗi giọt đều là dầu". "Tạ ơn Chúa, tạ ơn Chúa," Lucas nói. Giếng dầu, sau đó được biết tới với cái tên giếng Lucas số 1, ở Spindletop này không chỉ đem lại sản lượng 50 thùng mỗi ngày mà là khoảng 75.000 thùng mỗi ngày. Ở Beaumont, người ta cũng nghe rõ tiếng gầm của giếng dầu này và một số người nghĩ rằng đó là ngày tận thế. Chưa ở đâu có giếng dầu nào như giếng này, trừ những "đài phun dầu" ở Baku. Hiện tượng này sau đó đã được gọi là một giếng dầu phun ở Mỹ.

Thông tin về giếng dầu Lucas số 1 nhanh chóng lan khắp nước Mỹ, và chẳng mấy chốc, lan khắp thế giới. Cuộc bùng nổ hoạt động sản xuất dầu lửa ở Texas đã bắt đầu. Những gì diễn ra sau đó thật hỗn loạn. Ngay lập tức, người ta bắt đầu điên cuồng tranh giành nhau thuê đất. Một vài mảnh đất được mua đi bán lại liên tục với mức giá ngày càng đáng kinh ngạc. Một phụ nữ làm công việc thu gom rác phải rùng mình khi nhận được 35.000 đô-la tiền bán chuồng lợn của bà. Những mảnh đất hai năm trước đó được bán với giá 10 đô-la mỗi acre giờ đây được bán với giá 900.000 đô-la mỗi acre. Rất nhiều mảnh đất đã được bán đi bán lại chỉ dựa trên một tấm bản đồ nhỏ, đầy sai sót và chữ viết nhằng nhịt.

Thị trấn trở nên đông đúc với khách tham quan, những người tìm vận may, các nhà đàm phán, và các công nhân mỏ dầu. Mỗi chuyến tàu đều đưa tới những đoàn người mới bị hút tới nơi này vì giấc mơ giàu lên trong nháy mắt nhờ giếng dầu phun kia. Chỉ trong một ngày Chủ nhật, các chuyến tàu đã "nhả" xuống Beaumont khoảng 15.000 người. Những người này lội qua bùn lầy và dầu chỉ để được nhìn thấy kỳ quan mới kia của thế giới. Có trên 16.000 người được cho là đang sống trong các lều lán trên ngọn đồi.

Chỉ trong vài tháng, dân số của Beaumont tăng vọt từ 10.000 người lên 50.000 người. Lều trại, nhà, lán, quán rượu, sòng bạc, nhà kho ở Beaumont – tất cả đều phải căng ra để phục vụ nhu cầu của đám người đầy tham vọng này. Theo tính toán, trong những tháng đầu sau khi phát hiện giếng dầu, Beaumont tiêu thụ hết một nửa số rượu vang trên toàn bang Texas. Đánh lộn là một thú tiêu khiển được ưa thích. Có lần, 16 xác người được vớt lên từ con sông chảy qua vùng. Những người này đều bị cắt cổ, họ là nạn nhân của một vụ ẩu đả ban đêm. Một trong những trò giải trí phổ biến nhất ở các quán rượu là đánh cược xem một con rắn chuông ăn hết một con chim được đưa vào trong lồng của nó mất bao lâu. Thậm chí còn phổ biến hơn nữa là bọn gái điếm tập trung ở Beaumont, và những cái tên của một số cô ả như Hazel Hoke, Myrtle Bellvue và Jessie George – đã trở thành huyền thoại.

Tại các tiệm cắt tóc, người ta phải xếp hàng đợi cả giờ đồng hồ và trả 25 xu để được hưởng đặc ân là tắm trong một chiếc bể dơ dáy. Mọi người đều không muốn phí phạm thời gian trong khi có đầy những việc liên quan đến dầu lửa phải giải quyết. Do đó, những vị trí thuận tiện ở gần đầu hàng người dài này thường được bán với giá khoảng 1 đô-la. Một số người kiếm được từ 40 đến 50 đô-la mỗi ngày bằng cách xếp hàng rồi bán chỗ của mình cho những người không có thời gian chờ đợi. Dĩ nhiên, số người mất nhiều hơn số người được và có vô số những trò lừa đảo để tiền đổi chủ thật nhanh chóng. Số người bán chứng khoán với các cổ phiếu có giá trị không đáng tin cậy đông đảo và bận rộn đến nỗi, Spindletop còn được biết tới với cái tên "Swindletop" (swindle có nghĩa là bịp bợm).

thầy bói có tên Madame la Monte kiếm bộn tiền nhờ chỉ vị trí giếng dầu mới cho những người đến xem bói. Thậm chí còn ăn nên làm ra hơn cả Madame la Monte là "Cậu bé có đôi mắt tia X", người có thể nhìn xuyên mặt đất và phát hiện dầu. Công ty quảng bá cho cậu bé tài năng này đã bán được hàng nghìn cổ phiếu. Trong vòng vài tháng, đã có 214 giếng dầu chen chúc nhau trên đồi Splindletop. Những giếng dầu này thuộc sở hữu của ít nhất 100 công ty khác nhau, có cả một công ty mang tên Công ty dầu mỏ của những quý cô. Một vài công ty khoan tìm dầu trên những mảnh đất, chỉ đủ rộng cho một giàn khoan. Dầu vẫn tiếp tục đổ ra từ các giếng trên đồi Splindletop và tình trạng dư thừa nhanh chóng xuất hiện. Đến giữa mùa hè năm 1901, giá dầu chỉ còn 3 xu/thùng trong khi một cốc nước có giá 5 xu – một dẫn chứng tồi về sản lượng dồi dào ban đầu của ngọn Đồi Lớn.

Thỏa thuận thế kỷ

Hơn ai hết, James Guffey, nhà khai thác dầu lửa chính ở Spindletop, cần thị trường cho dầu của mình. Nhưng vì không muốn bị Standard Oil nuốt chửng, ông cần những khách hàng khác. Guffey nhanh chóng tìm được một khách hàng rất lớn. Vì trong số những người phấn khích nhất trước thông tin truyền đi từ Spindletop có ngài ủy viên hội đồng thành phố London, người sẽ trở thành thị trưởng thành phố này, ngài Marcus Samuel.

Không lâu trước đó, Samuel đã đổi tên công ty đang phát triển nhanh chóng của mình thành Công ty vận chuyển và thương mại Shell. Cũng giống như tên của những tàu chở dầu của Samuel, cái tên này gợi nhớ tới mặt hàng vỏ sò cha ông kinh doanh trước kia. Giờ đây, Samuel và công ty của ông nhận thấy dầu lửa chảy ra từ vùng đồng bằng của Texas là một cách giảm sự phụ thuộc của Shell vào dầu lửa của Nga. Mặt khác, nếu mua dầu của Texas, Shell còn có thể trực tiếp xuất khẩu sang châu Âu. Dầu của Texas sẽ giúp Shell tăng cường sức mạnh trong cuộc đua tranh với tất cả các đối thủ.

Có một yếu tố khác nữa thuyết phục Samuel: Mặc dù không thích hợp lắm để làm dầu thắp sáng, dầu thô Texas lại rất thích hợp tốt để làm nhiên liệu cho tàu thủy. Một trong những niềm đam mê lớn của ông là biến những con tàu chạy than thành những con tàu chạy dầu – dầu của ông. Năm 1901, ông tự hào tuyên bố "có thể khẳng định rõ ràng công ty của ông là những người đi tiên phong trong việc sử dụng nhiên liệu lỏng trong vận tải trên biển". Do vậy, những tin tức từ Spindletop bay tới London, ngay lập tức khiến Shell phát cuồng và có những nỗ lực thật khôi hài. Ban đầu, công ty cố gắng tìm xem Beaumont ở đâu – trên cuốn bản đồ hoàn toàn không có một địa danh nào như thế, và tiếp đó là tìm cách liên lạc với Guffey.

Trước đó, người của Shell chưa bao giờ nghe thấy cái tên Guffey và họ vội vã tìm hiểu về nhân vật này. Về phần mình, Guffey nói rằng, ông chưa bao giờ biết đến Shell và điều này làm London nổi cáu và cảm thấy bị xúc phạm. Kết quả là, có thêm hàng loạt thư từ, điện tín khẳng định rằng Shell là một công ty "có ảnh hưởng lớn", là công ty dầu mỏ lớn thứ hai thế giới, và là "đối thủ nguy hiểm nhất của Standard Oil".

Trong khi đó, thông tin tình báo cho hay các tàu chở dầu của Standard thường xuyên lấy dầu Splindletop tại cảng Arthur càng khiến Shell lo lắng và hành động gấp rút hơn. Samuel cử người em rể tới Tân thế giới – tới New York, tiếp đó là Pittsburgh rồi đến Beaumont – để tìm cách ký hợp đồng với gã Guffey vô danh kia. Có lúc, người em rể của Samuel phải chạy quanh kiếm một tấm bản đồ thế giới treo tường để giải thích cho Guffey về các hoạt động trên thế giới của Shell.

Trở lại London sau chuyến đi và những cuộc thảo luận với Guffey, em rể của Samuel đủ tự tin để khẳng định với ông anh vợ một điểm vô cùng quan trọng "khả năng thiếu nguồn cung sẽ không xảy ra". Vấn đề đáng lo lắng duy nhất là nguồn cung lại quá nhiều. Đến tháng 6 năm 1901, chỉ nửa năm sau khi giếng dầu phun được phát hiện ở Spindletop, hai công ty đã hoàn tất việc đàm phán và ký hợp đồng. Họ thỏa thuận, trong vòng 20 năm sau đó, Shell sẽ mua lại ít nhất 50% sản lượng dầu lửa của Guffey, với mức giá được bảo đảm là 25 xu/thùng, tương đương một lượng dầu tối thiểu là 15 triệu thùng. Nếu muốn, Shell sẽ mua nhiều hơn. Đối với cả hai bên, đây là một thỏa thuận thế kỷ. Marcus Samuel đặt đóng nhanh thêm bốn tàu chở dầu mới để thực hiện điều mà ông coi là một cuộc đảo chính lớn khác – hoạt động buôn bán mới của Texas. Spindletop sẽ làm thay đổi ngành công nghiệp dầu lửa, vì sản lượng dầu khổng lồ ở đây sẽ dịch chuyển trung tâm sản xuất dầu của Mỹ ra khỏi Pennsylvania và Appalachi về phía tây nam. Spindletop cũng sẽ giúp cho việc mở ra một trong những thị trường chính của thế kỷ XX và ở đó, Samuel là nhà vô địch – thị trường dầu nhiên liệu.

Tuy nhiên, điều này được định đoạt bởi tự nhiên chứ không phải ý muốn của con người – dầu của Texas có chất lượng kém đến nỗi không thể lọc thành dầu hỏa bằng các kỹ thuật thời đó. Do vậy, người ta không dùng loại dầu này không để thắp sáng mà chủ yếu dùng làm nhiên liệu cho lò sưởi và động cơ. Gần như ngay lập tức, nhiều ngành công nghiệp ở Texas chuyển từ dùng than sang dùng dầu. Từ chỗ chỉ có một đầu máy xe lửa chạy bằng dầu năm 1901, đến năm 1905, Công ty đường sắt Santa Fe đã có tới 227 đầu máy loại này. Các công ty vận tải đường thủy cũng ồ ạt ngừng sử dụng than và chuyển sang dùng dầu.

Những thay đổi bắt nguồn từ Spindletop này cho thấy sự chuyển biến lớn trong lĩnh vực công nghiệp. Spindletop cũng trở thành trường đào tạo của ngành công nghiệp dầu lửa vùng Tây Nam. Các cậu bé nông thôn và thành thị cũng như các chủ trại gia súc cùng học những trò buôn bán lừa đảo ở nơi đây. Một thứ ngôn ngữ mới ra đời trên quả đồi này. Chính tại Spindletop, lần đầu tiên, một "người khoan giếng" (well borer) được gọi là "thợ khoan dầu" (driller), một người phụ việc lành nghề (skilled helper) được gọi là "công nhân dàn khoan" (bottleneck), và một người phụ việc tay nghề bậc trung (semiskilled helper) được gọi là "giúp việc giàn khoan" (routsabout). Một "kẻ ít tiền" (shoe-stringer) phải chia lợi tức một giếng dầu với những người có liên quan đến việc làm ăn của anh ta, bao gồm chủ đất, nhà cung cấp, chủ nhà trọ, chủ quán rượu mà anh ta yêu thích, và thậm chí cả cô ả anh ta yêu nữa, nếu cần. Sự bùng nổ hoạt động khoan tìm và khai thác dầu ở Spindletop, cùng với tất cả sự điên cuồng, mê loạn và những tiệm nhảy rẻ tiền nơi đây, sẽ còn lặp đi lặp lại nhiều lần ở vùng Tây Nam nước Mỹ trong một vài năm tiếp theo, bắt đầu với những đồi muối khác dọc theo vùng bờ Vịnh của Texas và Lousiana. Tuy nhiên, dầu được tìm thấy ở Oklahoma cũng sẽ nhiều không kém.

Bắt đầu từ năm 1901, người ta phát hiện ra một chuỗi giếng dầu ở Oklahoma, đặc biệt tập trung ở vùng Glenn Pool, gần Tulsa, nơi có nhiều giếng dầu được tìm thấy năm 1905. Sau đó, ở Lousiana, người ta lại tìm thấy thêm nhiều giếng mới. Trong khi đó, ở Bắc Texas, các chủ trang trại cố gắng khoan tìm nước thì thay vì tìm thấy nước lại gặp phải dầu, mở ra một đợt bùng nổ mới. Tuy nhiên, chính Oklahoma đã thay thế Texas trở thành bang sản xuất dầu lớn nhất ở khu vực Tây Nam, chiếm tới hơn một nửa tổng sản lượng dầu lửa của vùng này năm 1906. Tới tận năm 1928, Texas mới giành lại được vị trí số một trong lĩnh vực sản xuất dầu lửa tại Mỹ và duy trì vị trí đó cho tới tận ngày nay.

Công ty Gulf không nói "Xin phép ngài"

James Guffey, nhà xúc tiến kinh doanh hậu thuẫn cho Lucas, đã trở thành biểu tượng của nước Mỹ về sự giàu có đến trong chốc lát. Người ta cho rằng, ông đang trên đà trở thành một Rockefeller khác, ít nhất là về mặt hình thức. Thậm chí, rất có thể, có lúc chính bản thân Guffey cũng tin vào điều này. Xét cho cùng, ông đã đạt được thỏa thuận dầu lửa lớn nhất thế giới, kéo dài tới 20 năm, với Marcus Samuel của tập đoàn Shell.

Mặc dù vậy, đến giữa năm 1902, tức là một năm rưỡi sau khi giếng dầu phun được khoan ở Spindletop, Guffey và công ty của ông phải đối mặt với rắc rối thật sự. Áp suất lòng đất ở Spindletop bị mất do khai thác dầu tràn lan, và đặc biệt, do những giàn khoan trên những miếng đất nhỏ. Sản lượng dầu lửa của Big Hill sụt giảm. Tuy nhiên, những vấn đề của Guffey Petroleum có nguyên nhân từ chính công ty này – James Guffey chỉ có kỹ năng của một nhà xúc tiến kinh doanh chứ không phải của một nhà quản lý bởi năng lực làm giám đốc của ông cũng kém như chất lượng của thứ dầu ông khai thác được.

Tình hình này khiến hai ông chủ nhà băng ở Pittsburgh lo lắng. Đó là Andrew W. và Richard Mellon, những người đã cấp vốn ban đầu để hậu thuẫn cho Guffey và Đại tá Lucas. Cha họ, thẩm phán Thomas Mellon, đã chuyển giao ngân hàng của gia đình cho Andrew khi ông 26 tuổi. Sau đó, Andrew cùng với người em trai phát triển ngân hàng Mellon and Sons thành một trong những ngân hàng lớn của Mỹ, đóng vai trò trung tâm trong sự phát triển công nghiệp của quốc gia này vào thế kỷ XIX. Hai anh em nhà Mellon dành cho John Galey, đối tác của Guffey, cảm tình và sự kính trọng đặc biệt. Khi còn bé, cha của Galey và cha họ, thẩm phán Mellon, đã cùng nhau từ Ireland tới Mỹ trên một chiếc thuyền. Họ biết John Galey là một chuyên gia dò tìm dầu lửa vĩ đại, thậm chí cả khi họ lo ngại về tính bất cẩn về tài chính của ông.

Năm 1900, đối tác của Galey là Guffey tới Spindletop đã thuyết phục được anh em nhà Mellon cấp khoản vay 300.000 đô-la cho vụ khoan tìm dầu đầy rủi ro ở quả đồi này, cộng thêm hàng triệu đô-la nữa để sản xuất dầu tại đây. Giờ đây, năm 1902, chỉ một vài tháng sau, do áp suất và dòng dầu chảy ở Spindletop đã cạn, anh em nhà Mellon lo ngại rằng Guffey sẽ không chỉ mất số tiền họ cho ông vay mà cả tiền của các nhà đầu tư khác mà họ đưa vào thỏa thuận này. Hai ông chủ ngân hàng này nghĩ ra một giải pháp, đó là dùng người cháu trai kém họ khoảng 10 tuổi tên William C. Mellon. William là một người đáng tin cậy. Năm 19 tuổi, ông đã nghe tin về việc người ta tìm thấy dầu tại thị trấn Economy, gần Pittsburgh. Mùi dầu và sự thú vị của ngành kinh doanh dầu lửa thu hút William và ông đã nhảy vào lĩnh vực này.

Trong vài năm sau đó, ông lang bạt khắp Appachila để tìm kiếm dầu và đã tìm được. Có lần, ông phát hiện ra một giếng dầu có sản lượng 1.000 thùng mỗi ngày tại nghĩa trang của một nhà thờ và nhà thờ này đã kiếm được rất nhiều tiền nhờ giếng dầu đó. William biết ông đã bị cuốn vào một cơn sốt. Về sau, ông nhớ lại, "đối với rất nhiều người làm trong ngành công nghiệp dầu lửa, lĩnh vực này giống như một ván bài, trong đó, sự thú vị còn có giá hơn những đống tiền lớn… Không ai trong số chúng tôi muốn dừng lại, rút tiền khỏi những giếng dầu để trở về nhà. Mỗi giếng dầu, cho dù thành công hay thất bại, đều đem lại động lực để khoan thêm một giếng dầu khác".

Nhưng ông chú Andrew của William đã khắc sâu vào ông bài học rằng, đó không phải là cách làm ăn nghiêm túc và mục tiêu cần phải được đặt vào việc hợp nhất, tức là kiểm soát mọi công đoạn của hoạt động kinh doanh. Andrew nói: "Cách làm ăn thật sự trong ngành dầu lửa là phải phát triển tất cả các lĩnh vực liên quan, từ lấy dầu thô ra khỏi lòng đất, lọc hóa dầu tới sản xuất và phân phối sản phẩm". Một công ty dầu mỏ đi theo bất kỳ con đường nào khác cũng sẽ bị Standard Oil định đoạt số phận. William đã hành động theo lời khuyên của chú mình. Bất chấp thái độ thù địch của Standard Oil và Công ty đường sắt Pennsylvania, ông xây dựng một công ty dầu mỏ hợp nhất. Công ty của William khai thác dầu thô ở phía Tây Pennsylvania rồi đem lọc tại các nhà máy nằm ở hai đầu của bang này, vận chuyển sản phẩm bằng đường ống riêng tới Philadelphia, rồi xuất khẩu sang châu Âu.

Cho tới năm 1893, công ty của gia đình Mellon đã chiếm tới 10% tổng lượng dầu lửa xuất khẩu của Mỹ và có kho dự trữ dầu lên đến 1 triệu thùng. Khi đó, Standard Oil đề nghị mua lại công ty này. Nhà Mellon không phải là những người đa cảm, họ xây dựng công ty rồi lại bán đi, sau đó thành lập công ty mới. Và đã đến lúc họ bán công ty của mình và thu được một khoản tiền lớn từ vụ mua bán này. Với ý nghĩ sẽ không dính dáng đến dầu lửa nữa, William chuyển sang kinh doanh xe điện. Bảy năm sau, khi 27 tuổi, William nhận ra mình đã sai. Theo chỉ thị của hai người chú, ông tới Spindletop để xem xét khoản đầu tư của gia đình. William báo cáo về cho biết, họ sẽ không bao giờ lấy lại được tiền chừng nào Guffey còn là người đứng đầu công ty.

Như đã làm bảy năm trước đó, nhà Mellon đề nghị bán lại công ty mới này cho Standard Oil. Nhưng lần này, Standard Oil từ chối do những cuộc tấn công bằng pháp luật mà bang Texas đang giáng vào tập đoàn này, và đặc biệt là vào D. Rockefeller. Một giám đốc của Standard giải thích: "Chúng tôi rút khỏi đây thôi. Với cách Texas đối xử với ngài Rockefeller, ông ấy sẽ không bao giờ đầu tư một xu nào vào nơi này nữa". Sau đó, William Mellon thất vọng nói, chỉ còn một giải pháp duy nhất cho "một tình huống xấu như tôi đã nhận thấy từ trước," và đó là "quản lý tốt, làm việc chăm chỉ, và dầu thô".

Trở ngại đầu tiên là Guffey, người mà William Mellon đánh giá là một kẻ khoác lác vô dụng. William liền tiếp quản quyền quản lý hai công ty được liên kết với nhau cùng được thành lập năm 1901 là công ty Guffey Petroleum và công ty lọc dầu Gulf Refining. Dĩ nhiên, Guffey cảm thấy vô cùng phẫn uất vì dù sao đi chăng nữa, báo chí cũng đã ca tụng ông là nhân vật vĩ đại nhất trong ngành công nghiệp dầu lửa Mỹ. Đôi lúc, William Mellon thấy rằng, ông phải tỏ ra khá khắt khe và độc đoán đối với con người vĩ đại nhất trong ngành dầu lửa nước Mỹ này. Mellon nói: "Vấn đề chính nằm ở việc biến dầu thô thành tiền".

Cần phải xem xét lại một số điều khoản trong bản hợp đồng của công ty Guffey Petroleum với Shell, bản hợp đồng trong đó phía công ty Mỹ sẽ bán một nửa sản lượng dầu của mình cho Shell với giá 25 xu/thùng trong vòng 20 năm. Hợp đồng đó được soạn thảo vào thời điểm dầu sản xuất ra dường như là bất tận, thậm chí không thể kiểm soát được, khi công ty Guffey Petroleum cần thị trường, và khi dầu được bán với giá 10 xu hoặc thậm chí 3 xu/thùng – rõ ràng là một món hời lớn cho dù tính theo cách nào. Bản hợp đồng có thời hạn 20 năm nhưng thế giới đã có những thay đổi lớn chỉ trong chưa đầy hai năm.

Trong nửa cuối năm 1902 và sang năm 1903, do sản lượng dầu ở Spindletop sụt giảm, giá dầu tăng lên mức 35 xu/thùng hoặc thậm chí còn cao hơn. Do vậy, để tuân thủ bản hợp đồng, công ty Guffey Petroleum phải mua dầu từ bên thứ ba và bán lại với mức giá lỗ cho Shell. Rất có thể Guffey vẫn nghĩ rằng đây là một thỏa thuận của thế kỷ nhưng William Mellon thì chắc chắn là không. Ông cho rằng, đây là một thỏa thuận tồi mà ông cần nhanh chóng thoát ra. Tuy nhiên, Marcus Samuel rất tin tưởng vào hợp đồng này. Do vậy, tin xấu từ Texas rằng nguồn cung dầu lửa của Guffey bị gián đoạn là một cú sốc lớn đối với ông. Dù Guffey có bị thiệt hại ra sao, Shell vẫn có đủ mọi lý do để duy trì nội dung của bản hợp đồng. Còn trong trường hợp vi phạm thỏa thuận, Shell nhất quyết muốn được bồi thường một khoản lớn.

Để đối phó với tình hình, Samuel lệnh cho bốn tàu chở dầu được đóng mới để vận tải dầu của Texas chuyển sang chở gia súc từ bang này tới khu Đông London. Tuy nhiên, đây chỉ là một kế sách tạm thời cho tới khi việc vận chuyển dầu được nối lại. Samuel chuẩn bị đâm đơn kiện, nhưng một chuyên gia luật của Mỹ đã cảnh báo ông rằng, kết quả của một cuộc chiến trước tòa không hề chắc chắn chút nào, trước hết vì đây là một bản hợp đồng soạn thảo cẩu thả và không chặt chẽ. Andrew Mellon đích thân tới London để theo đuổi vấn đề này. Andrew còn đi tới Kent, đến điền trang Mote của Samuel để nói chuyện với ông.

Trong nhật ký của mình, ngày 18 tháng 8 năm 1903, Samuel viết, Mellon "rất ngưỡng mộ khu vườn hoa". Ngày hôm sau, ông viết thêm: "Tới London trên chuyến tàu 9 giờ 27 phút để giải quyết việc làm ăn quan trọng.…

Một ngày đàm phán bận rộn với ông Mellon để cố tránh việc kiện tụng với công ty Guffey nhưng không thành công trong việc đạt được một tạm ước, sau đó, tham khảo ý kiến các luật sư". Andrew Mellon là một người đàn ông lịch thiệp, quyến rũ, có phong cách nhẹ nhàng, nhưng cũng là người kiên quyết và rất cứng rắn. Đến đầu tháng 9, hai bên đã đạt được một tạm ước, một thỏa thuận mới. Thỏa thuận thế kỷ, thỏa thuận vô cùng quan trọng đối với chiến lược của Marcus Samuel, đã bị thay thế bằng một hợp đồng trên thực tế không bảo đảm cho Shell bất kỳ điều gì về dầu lửa. Guffey Petroleum và những người nhà Mellon hoàn toàn không phải đối mặt với trở ngại nào nữa.

Trong khi đó, William Mellon đang theo đuổi một chiến lược rồi đây sẽ trở thành trung tâm của ngành công nghiệp dầu lửa trong toàn bộ thế kỷ XX. Đó là gắn kết các hoạt động khác nhau của ngành công nghiệp dầu lửa lại để lập một công ty dầu mỏ thống nhất. William có chủ ý xây dựng một chiến lược khác với chiến lược của Standard Oil. Ông nhận định rằng Standard sử dụng sức mạnh, bảo vệ và duy trì địa vị của mình bởi công ty này gần như là công ty mua dầu thô duy nhất và vì quyền kiểm soát hoạt động vận tải của công ty này. "Standard là người ra giá", Mellon nói, và hầu như mọi hãng sản xuất dầu lửa đều phụ thuộc vào công ty này. Mặc dù các công ty khai thác dầu lửa có thể và đã thật sự hoạt động tốt dưới sự sắp đặt này, nhưng họ vẫn "nằm trong sự định đoạt của Standard". Mellon lo ngại rằng, rốt cục, khi có thêm những mỏ dầu mới được phát hiện và khai thác ở Texas, Standard sẽ mở rộng hệ thống đường ống của mình vào bang này và công ty của nhà Mellon tất yếu sẽ bị hút vào hệ thống sản xuất của Standard.

Nhắc lại bài học của người chú, William Mellon kết luận rằng "biện pháp để cạnh tranh là xây dựng một doanh nghiệp hợp nhất trước hết sẽ sản xuất dầu. Tôi đã nhận thấy, khai thác phải là nền tảng của một doanh nghiệp như vậy. Đó rõ ràng là cách duy nhất cho một công ty muốn hoạt động mà không cần nói "xin phép ngài" với bất kỳ ai". Và những người nhà Mellon không có ý định nói câu "xin phép ngài" với bất kỳ ai, nhất là đối với Standard Oil. Một trong những vấn đề lớn nhất mà William Mellon phải đối mặt là thực tế công suất của nhà máy lọc dầu mới của công ty ở cảng Arthur gần bằng với sản lượng dầu của toàn bang Texas. Ngoài ra, nhà máy này còn phụ thuộc vào loại dầu chất lượng kém có thể cạn kiệt bất kỳ lúc nào.

Tuy nhiên, năm 1905, mỏ dầu mới được phát hiện Glenn Pool ở Oklahoma đã cung cấp một loại dầu chất lượng cao hơn. Đây là cách giải quyết vấn đề trên – dầu với "chất lượng Pennsylvania và khối lượng Texas". Tuy nhiên, công ty cần phải hành động nhanh vì Standard Oil đang bận rộn với việc mở rộng hệ thống đường ống từ vùng Independence, bang Kansas. William Mellon cảnh báo các ông chú mình: "Nếu chúng ta không tiếp cận được mỏ dầu ở Oklahoma," toàn bộ doanh nghiệp của họ sẽ thất bại. Để gấp rút xây dựng một đường ống dài 450 dặm từ cảng Arthur tới Tulsa, Mellon sử dụng bốn đội công nhân, một đội bắt đầu ở phía nam, từ Tulsa; một đội bắt đầu ở phía bắc, từ cảng Arthur; và hai đội bắt đầu ở giữa và tiến về hai đầu. Đây là một cuộc đua với thời gian – và với cả Standard Oil.

Tới tháng 10 năm 1907, dầu từ Glenn Pool đã chảy qua đường ống này tới nhà máy lọc dầu tại cảng Arthur, và gia đình nhà Mellon đã thiết lập được vị trí chắc chắn với tư cách là những người chơi chính trong ngành công nghiệp dầu lửa. Việc xây dựng đường ống trên diễn ra cùng với việc xây dựng lại công ty. Nhà Mellon sẽ không đổ tiền vào công ty hiện tại đang trong tình trạng suy yếu. William Mellon đã tiến hành tổ chức lại Guffey Petroleum và Gulf Refining, và kết quả là công ty Gulf Oil ra đời. Giờ đây, công ty này hoàn toàn là một công ty của nhà Mellon. Andrew Mellon trở thành chủ tịch; Richard B. Mellon là thủ quỹ; và William là phó chủ tịch. Còn Guffey hoàn toàn bị gạt sang một bên và từ đó về sau, ông liên tục phàn nàn rằng: "Họ ném tôi ra ngoài". Vậy ai trở thành những người đi đầu của Spindletop?

Sau này, Đại tá Anthony Lucas nói: "Vì sự thật là ông Guffey và người nhà Mellon có nhiều tiền còn tôi thì không, tôi chấp nhận đề nghị của họ và bán lại lợi ích của tôi cho họ với mức giá thỏa đáng". Về phần mình, ông tới thủ đô Washington, làm một kỹ sư tư vấn và nhà địa chất học. Ba năm sau phát hiện của Lucas ở Spindletop, ông trở lại Beautmont và khảo sát ngọn đồi đầy những giàn khoan nhưng giờ đã cạn dầu, những giếng dầu ở đây đã bị người ta khai thác quá nhanh chóng. Sau khi đi quanh khu vực mỏ dầu, ông buồn rầu nói: "Con bò đã bị vắt sữa quá mạnh. Hơn nữa, nó không được vắt sữa một cách khôn ngoan".

Về phần Patillo Higgins, ông đâm đơn kiện Đại tá Lucas, con người vô cảm đã hất ông ra. Ông cũng thành lập công ty dầu mỏ Higgins Oil nhưng sau đó bán lại cho các đối tác của mình. Ông còn cố gắng xây dựng một công ty dầu mỏ hợp nhất có tên Higgins Standard Oil nhưng thất bại vì công chúng đã trở nên thận trọng với bất kỳ loại cổ phiếu được phát hành nào mang dấu "Swindletop". Tuy nhiên, có vẻ như Higgins đã kiếm được món tiền lớn, và có lần, 32 công dân của Beaumount đã ký vào một lá thư ngỏ nói rằng ông xứng đáng "được tôn kính vì đã khám phá và phát triển" Spindletop.

Xét cho cùng, ông đã không hề điên rồ quá mức. Cả James Guffey và John Galley đều không thể giữ được tiền của mình. Cháu của Galey viết: "Những thời điểm khó khăn đến với cả hai khi họ già đi và sự vực lại mỗi ngày lại trở nên khó thực hiện hơn. Họ đã để tuột nhiều cơ hội trở nên giàu có thực sự, có lẽ bởi vì họ đã không tung ra con át chủ bài đúng lúc. Những cơ hội như thế hiếm khi xuất hiện. Spindletop là vụ làm ăn lớn cho quan hệ hợp tác giữa Guffey và Galey. Sau đó, họ phải vật lộn với những dự án khoan tìm dầu nhỏ lẻ, được cấp vốn chủ yếu nhờ vào danh tiếng đang suy tàn của họ với tư cách là những người tìm dầu vĩ đại nhất trong nửa thế kỷ đầu tiên của ngành công nghiệp dầu lửa tại bán cầu này".

Guffey, nhà xúc tiến kinh doanh, trải qua những thập niên cuối trong cuộc đời thọ 91 tuổi của ông ngập sâu trong nợ nần. Nhờ các chủ nợ giúp đỡ mà ông mới được sống trong một ngôi biệt thự ở Đại lộ số 5 ở Pittsburgh cho tới lúc chết. Galey, một nhà thăm dò dầu, chỉ được trả một khoản tiền "trồng cây" là 366.000 đô-la mà Guffey nợ ông do thỏa thuận giữa họ về Spindletop.

Về cuối đời, Galey cùng với Al Hamill, người từng làm thợ khoan dầu ở Spindletop đi tới nhiều vùng của bang Kansas để kiếm hợp đồng. Một hôm, tuyết rơi rất dày nên họ không thể đi tiếp được. Do đó, hai người quyết định dừng lại và trở về nhà. Sau này, Galey phải cay đắng thừa nhận, trong suốt cuộc đời mình, ông chưa bao giờ nghèo như lúc đó. Liệu Hamill có thể đổi một tấm séc do bà Galey ký? Thay vào đó, Hamill thanh toán hóa đơn khách sạn của Galey và đưa ông lên tàu trở về nhà dưới tuyết rơi.

Đó là lần cuối cùng người có khả năng ngửi thấy dầu John Galey thử tìm kiếm một thỏa thuận dầu lửa. Chẳng bao lâu sau, ông qua đời. Về phần William Mellon, ông đã giữ chức giám đốc và chủ tịch của Gulf Oil trong nhiều năm, khi công ty này trở thành một trong những công ty dầu mỏ lớn nhất thế giới. Năm 1949, không lâu trước khi chết, ông nhận định: "Tập đoàn Gulff đã rất lớn mạnh và tôi không còn theo kịp nó nữa".

Công ty Sun: "Biết phải làm gì"

Trong số hàng nghìn người đi tàu hỏa tới Beaumont, bang Texas trước cái tin Đại tá Lucas phát hiện ra dầu, có một người tên là Robert Pew. Theo chỉ đạo của ông bác J. N. Pew, Robert đã tới Spindletop chỉ sáu ngày sau khi giếng dầu phun được tìm thấy và nhanh chóng nhận ra cơ hội kiếm tiền không chỉ nhờ dầu lửa mà cả những triển vọng giao thông thuận tiện qua vịnh Mexico đem lại. Tuy nhiên, ông không thích thời tiết, thị trấn, con người hay sự bùng nổ hoạt động sản xuất dầu tại đây, hay bất cứ điều gì khác về Texas. Vì bị ốm nên Robert đã rời Beaumont. Thế chỗ Robert là em trai ông, J. Edgar Pew, người đến cùng một khẩu súng lục, thứ mà cả anh trai và chú ông đều khẳng định là rất cần thiết cho việc tự vệ tại một nơi lộn xộn như Beaumont. Người nhà Pew có thể là người lạ đối với Beaumont, nhưng đối với dầu lửa thì không, vì họ đã hoạt động trong lĩnh vực này suốt một phần tư thế kỷ.

Năm 1876, tại phía tây bang Pennsylvania, J. N. Pew và một đối tác đã bắt đầu khai thác và bán khí đốt tự nhiên (khi đó bị coi như phế phẩm) ban đầu như một loại nhiên liệu ở mỏ dầu. Năm 1883, họ trở thành công ty đầu tiên cung cấp khí tự nhiên cho một thành phố lớn, thành phố Pittsburgh, để thay thế gas. Nhà Pew đã xây dựng nên một doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên, Standard Oil bắt đầu chú ý đến khí tự nhiên và thành lập tờ-rớt Khí tự nhiên năm 1886. Cuối cùng, J. N. Pew làm theo cách mà gia đình Mellon đã làm với công ty dầu đầu tiên của họ vào thập niên 1890, ông bán lại công ty khí tự nhiên cho Standard.

Năm 1886, Pew cũng bắt đầu sản xuất dầu tại mỏ dầu Lima. Sau khi tìm kiếm tên một thiên thể để đặt cho công ty, cuối cùng, ông quyết định chọn mặt trời vì sự nổi bật của nó. Trong suốt một thập kỷ rưỡi sau đó, Công ty Sun Oil không đạt được vị trí nổi bật tương xứng với cái tên trong ngành công nghiệp dầu lửa nhưng đã thành công trong việc tạo dựng một vị thế đáng nể trọng bên cạnh người khổng lồ Standard Oil. Sau khi tới Beaumont năm 1901, J. Edgar Pew tiến hành mua đất cho Công ty Sun Oil.

Với kinh nghiệm trước đó, ông và gia đình Pew biết rằng chỉ khai thác dầu thôi là không đủ. Sau này, J. Edgar nói: "Anh có thể mua hàng triệu thùng dầu với giá 5 xu/thùng, nhưng vấn đề là phải biết cách giải quyết chỗ dầu đó như thế nào". Do đó, Sun Oil cũng mua các kho chứa trong khu vực. Ngoài ra, công ty còn xây dựng một nhà máy lọc dầu ở Marcus Hook, bên ngoài Philadelphia, để tiếp nhận dầu thô chuyển từ Texas tới bằng thuyền, đồng thời bắt tay vào việc phát triển các thị trường dài hạn. Khi hoạt động sản xuất dầu ở Spindletop bị thu hẹp, Sun Oil tiến hành mở rộng hoạt động tại một số nơi khác ở Texas, mua lại các cơ sở khai thác và xây dựng hệ thống đường ống riêng tại vùng này.

Tới năm 1904, Sun là một trong số ít những công ty vượt trội trong lĩnh vực kinh doanh dầu lửa ở khu vực bờ vịnh Mexico. "Joe da hoẵng" và Texaco Từ trong sự hỗn độn của Spindletop, có thêm một công ty dầu mỏ lớn nữa được sinh ra. Đó là tác phẩm của Joseph Cullinan, một trong những người tiên phong lỗi lạc nhất trong sự phát triển của ngành công nghiệp dầu lửa của Texas. Năm 1895, Cullinan từ bỏ sự nghiệp đầy hứa hẹn tại bộ phận đường ống của Standard để thành lập công ty thiết bị dầu lửa của riêng mình ở bang Pennsylvania. Ông có biệt danh "Joe da hoẵng" là do tính cách hung hăng và cay nghiệt, cũng như quyết tâm giải quyết công việc của ông khiến những người làm việc cho ông nhớ đến loại da thô ráp dùng làm găng tay và giày tại các mỏ dầu.

Năm 1897, Cullinan được mời tới thăm Corsicana thuộc bang Texas, tư vấn cho những người đứng đầu của thị trấn này về việc tiếp tục phát triển ngành dầu lửa. Thay vì chỉ đưa ra lời khuyên, ông ở lại và trở thành nhân vật hàng đầu trong ngành dầu lửa tại Corsicana. Ngày Đại tá Lucas tìm ra giếng dầu phun ở Spindletop, Cullinan đã có mặt tại Beaumont để xem điều gì xảy ra. Ngay lập tức, ông biết rằng đây là một thứ hoàn toàn khác biệt và có quy mô lớn hơn rất nhiều so với mỏ dầu ở Corsicana.

Bước tiến đầu tiên của Cullinan ở Beaumont là thành lập Texas Fuel, một công ty chuyên mua bán dầu thô. Kinh nghiệm về thiết bị dầu lửa của Cullinan xem ra rất có ích. Công ty Texas Fuel của ông có lợi thế hơn các đối thủ cạnh tranh tương lai vì ông đã xây dựng các kho chứa chỉ cách đó 20 dặm. Chẳng mấy chốc, Cullinan đã giành quyền kiểm soát những khu đất giá trị mà một nhóm các cựu chính trị gia gom góp lại ở Spindletop.

Đứng đầu nhóm người trên là James Hogg, một người nặng trên 100 kg, từng là thống đốc và là thành viên của Đảng Cấp tiến của Texas. Vị cựu thống đốc này đồng thời cũng là một thương gia rắn mặt. Ông từng nói: "Hogg là tên của tôi, còn hog (tức là tham lam) là bản tính của tôi". Nhóm của Hogg mua lại mảnh đất quan trọng nhất của họ từ James Guffey, nhân vật không có khả năng làm quản lý nhưng lại có bản năng chính trị hợp với một cựu chủ tịch Đảng Dân chủ.

Vì theo như Guffey giải thích, việc bán lại những mảnh đất có giá trị hiển nhiên như vậy là cái giá của sự bảo đảm về chính trị. Ông nói: "Ngày đó, ở Texas, những người từ phía Bắc tới không được tôn trọng lắm. Thống đốc Hogg là một người quyền lực ở đó và tôi muốn ông ta đứng về phía mình vì tôi sẽ đầu tư nhiều tiền". Hogg là đối thủ chính của Standard Oil ở Texas. Khi còn đương chức Hogg ông thậm chí còn tìm cách dẫn độ Rockefeller từ New York ra hầu hòa. Và sự tham gia của Hogg sẽ góp phần bảo vệ công ty của Guffey ở một mức độ nhất định trong việc chống lại những chiến thuật tương tự của Standard khi phải đối mặt với một kẻ địch mới.

Để có vốn khai thác dầu trên đất của mình, Cullinan tìm đến Lewis H. Lapham, một người New York sở hữu công ty U.S. Leather, trung tâm của tờ-rớt kinh doanh các sản phẩm da, và W. Gates, một nhà tài chính người Chicago có tính hay khoa trương. Gates được người ta gọi là Gates "cược một triệu" vì ông luôn sẵn sàng đánh cược bất kỳ điều gì. Đối với các đối tác người Texas đang lo lắng về ưu thế vượt trội của vốn "ngoại," Cullinan trấn an họ rằng: "Những người Tammany sẽ gặp đối thủ xứng đáng của họ là những người phương Nam". Dự báo của ông đúng ở một điểm. Với kinh nghiệm đầy đặn và tài năng lãnh đạo thiên bẩm, Cullian nhanh chóng nổi lên thành nhân vật ưu tú nhất trong ngành dầu lửa ở Beaumont.

Tháng 9 năm 1902, khi một biển lửa khủng khiếp bùng lên ở Spindletop, ông đã chỉ huy mọi người nỗ lực dập tắt nó. Vật lộn trong suốt một tuần liền gần như không nghỉ, cho tới tận khi đám cháy được dập tắt, Cullian gục xuống vì kiệt sức. Mắt ông mờ đi vì khói, thậm chí ông còn không thể nhìn thấy gì trong mấy ngày liền và phải nằm liệt giường trong tình trạng bị băng mắt. Tuy vậy, ông vẫn tiếp tục tổ chức các hội nghị và chỉ đạo công việc. Trong số những người làm việc cho Cullinan có Walter B. Sharp, người đã thực hiện nỗ lực khoan giếng dầu đầu tiên nhưng thất bại của Patillo Higgins ở Spindletop năm 1893 và giờ đây đang là một thợ khoan xuất sắc. Ngoài ra, còn có một thợ khoan lão luyện nữa là Howard Hughes, Sr.

Mùa xuân năm 1902, Cullinan thành lập công ty Texas để hợp nhất các hoạt động khác nhau và thực hiện quyền kiểm soát cá nhân và chuyên quyền của mình tốt hơn. Không giống như James Guffey, Cullinan biết cách quản lý một công ty dầu mỏ, và không giống như Guffey-Gulf, công ty Texas làm ăn có lãi ngay từ đầu. Trong những năm đầu đi vào hoạt động công ty này đã bán được dầu với giá trung bình là 65 xu/thùng. Do cứ mỗi khi sản lượng dầu sản xuất dư thừa, Cullinan lại tích trữ dầu với mức giá trung bình là 12 xu/thùng, công việc kinh doanh diễn ra rất tốt đẹp.

Cố gắng giải quyết những vấn đề trong công ty Guffey, những người nhà Mellon gần như hoàn thành vụ sáp nhập giữa công ty Gulf với công ty Texas của Cullinan. Tuy nhiên, lo sợ bóng ma của một tờ-rớt dầu lửa mới, các hãng sản xuất dầu lửa nhỏ hơn cố gắng tìm cách đưa sự việc này thành vấn đề luật pháp nóng nhất tại Texas. Thậm chí, các nhà vận động hành lang quan trọng nhất của hai bên còn có vụ xô xát trước công chúng tại một khách sạn ở Austin. Cuối cùng, cơ quan luật pháp của Texas phản đối vụ sáp nhập hai công ty, và hành động đó đã khép lại những cơ hội của thỏa thuận này. Sau đó, Cullinan tập trung mở rộng công ty Texas. Công ty này đã xây dựng đường ống dẫn dầu từ Glenn Pool ở Oklahoma tới cảng Arthur ở Texas.

Năm 1906, công ty đăng ký thương hiệu là Texaco với biểu tượng là chữ "T" màu xanh lá cây nổi trên một ngôi sao màu đỏ. Texaco bắt đầu sản xuất xăng và tới năm 1907, sau sáu năm hoạt động, công ty đã có được khoảng 40 sản phẩm để trưng bày tại Hội chợ bang Dallas. Tới năm 1913, sản lượng xăng của Texaco đã vượt qua sản lượng dầu thắp sáng và xăng trở thành sản phẩm quan trọng nhất của công ty. Trước đó, Cullinan dự báo rằng "thời điểm đó sẽ tới – có lẽ vào một ngày không xa – khi chúng tôi muốn trụ sở chính của chúng tôi được đặt tại Houston thay vì ở Beaumont, vì… theo tôi, dường như Houston có nhiều khả năng trở thành trung tâm của ngành công nghiệp dầu lửa ở vùng Tây Nam".

Không bao lâu sau, bất chấp thời tiết mùa hè nóng ẩm ngột ngạt ở Houston, ông chuyển văn phòng tới thành phố này, mặc dù các hoạt động quan trọng của công ty vẫn được điều hành từ New York. Kiểu quản lý chuyên quyền của Joe "da hoẵng" bắt đầu làm các nhà đầu tư cảm thấy khó chịu và dẫn tới vụ va chạm đầu tiên giữa Texas và New York, nhân tố ảnh hưởng lớn tới công ty. Một quan chức cao cấp viết thư cho Lapham phàn nàn rằng, Cullinan "nghĩ ông ta biết mọi thứ và phải xía vào mọi chuyện… Ông ta coi những người ở New York chúng ta như đuôi chó, một cái đuôi rất nhỏ bé". Khi các cổ đông chính của công ty cố gắng kiềm chế Cullinan, ông tiến hành phản công và tìm cách giành lại quyền kiểm soát.

Trong bài phát biểu trước các cổ đông, Cullinan tuyên bố rằng: "Ban lãnh đạo ban đầu, quan điểm kinh doanh và các hoạt động của công ty mang dấu ấn của cái tên Texas và những lý tưởng Texas", và rằng "nên duy trì trụ sở và bộ phận chỉ đạo của công ty ở Texas". Nhưng dĩ nhiên, đó vẫn chưa phải những gì mà toàn bộ cuộc chiến nhằm vào. Vấn đề chính ở đây là sự cai trị cá nhân của Cullinan. Phe New York thắng trong cuộc bỏ phiếu và Cullinan thất bại ê chề trong cuộc chiến này. Joe "da hoẵng" cố gắng tỏ ra bình tĩnh. Trong bức thư gửi một đối tác cũ ở Pennsylvania, ông nói: "Đó là một trận ẩu đả lớn ở quán trọ và vài đồ đạc bị đập nát. Nhưng phe của tôi thất bại trong bình đẳng và tôi sẽ sớm tìm một công việc khác". Ông đã làm vậy và tiếp tục đạt được những thành công mới trong lĩnh vực dầu lửa. Tuy nhiên, sau đó, ông chỉ hoạt động trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu, nhường mảng lọc hóa dầu và phát triển thị trường cho những người khác.

"Kiểm soát bằng cách nào?"

Việc phát triển các mỏ dầu mới ở vùng bờ vịnh Mexico và miền Trung của đại lục Bắc Mỹ làm suy yếu địa vị tưởng như không thể lay chuyển của Standard Oil. Những nguồn dầu lửa mới này, cùng với sự nổi lên nhanh chóng của các thị trường cho dầu nhiên liệu và xăng, mở ra cánh cửa cho nhiều đối thủ cạnh tranh mới, mà theo nhận định của William Mellon, không phải nói câu: "Xin phép ngài" trước Standard hay bất kỳ ai. Nên nhớ là, doanh số tuyệt đối của Standard Oil vẫn tiếp tục gia tăng. Doanh số xăng, sản phẩm của kỷ nguyên mới, tăng gấp hơn ba lần trong khoảng thời gian từ năm 1900 đến năm 1911 và lần đầu tiên vượt qua doanh số dầu hỏa vào năm 1911. Standard Oil còn điều chỉnh để thích nghi với những thay đổi về kỹ thuật sắp diễn ra.

Khi lần đầu tiên cất cánh bay trên bầu trời ở Kitty Hawk, phía bắc bang Carolina năm 1903, chiếc máy bay của anh em nhà Wright đã sử dụng sản phẩm xăng và dầu nhờn được đưa tới bãi biển này trong những chiếc thùng gỗ và những chiếc can màu xanh của Standard Oil. Tuy nhiên, xét về thị phần chung của các sản phẩm từ dầu tại Mỹ, vị trí thống lĩnh của Standard Oil đã giảm dần. Tỷ lệ kiểm soát trong lĩnh vực lọc hóa dầu của công ty này giảm từ mức 90% năm 1880 xuống còn khoảng 60% đến 65% năm 1911. Do hoạt động sản xuất dầu lửa ở vùng bờ vịnh Mexico bùng nổ, "Ngôi nhà cổ" nhận thấy quyền kiểm soát lĩnh vực khai thác dầu thô tại Mỹ cũng như khả năng "quy định" giá cả của mình – đã dần vuột mất.

Bên cạnh đó, sự phát triển của các nguồn dầu thô ở nước ngoài cũng đang làm suy yếu quyền lực của Standard Oil trên thị trường quốc tế. Dĩ nhiên, nhìn từ bên ngoài địa vị của công ty này dường như vẫn vững vàng. Tuy vậy, đó không phải là điều những người ở trong "Ngôi nhà cổ" nhận thấy. H. H. Rogers, Giám đốc của Standard buồn rầu nói với một vị khách: "Nhìn vào mọi thứ bây giờ mà xem! Dường như chỗ nào cũng có dầu. Kiểm soát bằng cách nào bây giờ? Cứ như thể có cái gì đó đang siết chặt lấy cổ của Standard Oil vậy". Có một ai đó", ông lo lắng nói thêm, "còn vĩ đại hơn cả chúng tôi".

(Còn tiếp)

Nam Hà (giới thiệu)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 1)Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 1)
Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 2)Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 2)
Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 3)Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 3)
Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 4)Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 4)