Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Châu Á và Thái Bình Dương cần 1.700 tỉ USD vốn đầu tư cơ sở hạ tầng mỗi năm

16:00 | 28/02/2017

Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo một báo cáo chủ đạo của Ngân hàng Phát triển châu Á, tới năm 2030, nhu cầu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng ở châu Á và Thái Bình Dương đang phát triển sẽ vượt 22,6 nghìn tỉ USD, tương đương 1.500 tỉ USD mỗi năm, nếu khu vực này muốn duy trì đà tăng trưởng. Nếu tính cả chi phí giảm thiểu và thích ứng biến đổi khí hậu, các số liệu ước tính tăng lên hơn 26 nghìn tỉ USD, tương đương 1.700 tỉ USD mỗi năm.
chau a va thai binh duong can 1700 ti usd von dau tu co so ha tang moi nam
Ảnh minh họa.

Với nhan đề Đáp ứng nhu cầu về cơ sở hạ tầng của châu Á, báo cáo này tập trung vào cơ sở hạ tầng trong các lĩnh vực năng lượng, giao thông, viễn thông, nước và vệ sinh. Báo cáo đã rà soát toàn diện các hoạt động đầu tư và cổ phiếu cơ sở hạ tầng hiện thời, nhu cầu đầu tư trong tương lai, và các cơ chế tài trợ cho châu Á đang phát triển.

Theo báo cáo trên, nhu cầu ước tính 1.700 tỉ USD mỗi năm (đã điều chỉnh theo biến đổi khí hậu) là hơn gấp đôi so với con số 750 nghìn tỉ USD mà ADB ước tính vào năm 2009. Việc đưa vào các khoản đầu tư liên quan tới khí hậu là một yếu tố quan trọng góp phần vào sự gia tăng này. Một yếu tố còn quan trọng hơn là tốc độ tăng trưởng nhanh tiếp tục được dự báo cho khu vực, tạo ra nhu cầu về cơ sở hạ tầng mới. Việc đưa vào báo cáo tất cả 45 nước thành viên ADB tại châu Á đang phát triển, so với 32 nước trong báo cáo năm 2009, và sử dụng giá năm 2015 thay vì giá năm 2008 cũng góp phần giải thích cho sự gia tăng này.

Chủ tịch ADB Takehiko Nakao phát biểu: “Nhu cầu về cơ sở hạ tầng ở châu Á và Thái Bình Dương vượt xa rất nhiều so với mức cung hiện thời. Châu Á cần xây mới và nâng cấp cơ sở hạ tầng để thiết lập tiêu chuẩn chất lượng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và ứng phó thách thức cấp bách toàn cầu là biến đổi khí hậu”.

Việc phát triển cơ sở hạ tầng tại 45 quốc gia nêu trong báo cáo đã có sự gia tăng vượt bậc trong những thập niên gần đây, giúp thúc đẩy tăng trưởng, giảm nghèo, và cải thiện đời sống của người dân. Nhưng vẫn còn sự thiếu hụt đáng kể về cơ sở hạ tầng, với hơn 400 triệu người vẫn thiếu điện, 300 triệu người chưa được tiếp cận nước an toàn, và khoảng 1,5 tỉ người không được tiếp cận điều kiện vệ sinh cơ bản. Rất nhiều nền kinh tế trong khu vực thiếu các công trình cảng, đường sắt và đường bộ tương xứng, có thể giúp họ kết nối hiệu quả hơn tới các thị trường lớn hơn ở trong nước và toàn cầu.

“ADB cam kết phối hợp với các quốc gia thành viên và vận dụng 50 năm kinh nghiệm và tri thức chuyên môn của ngân hàng để đáp ứng các nhu cầu về cơ sở hạ tầng trong khu vực. Do khu vực tư nhân có vai trò then chốt trong việc lấp đầy khoảng thiếu hụt, ADB sẽ thúc đẩy các chính sách tạo thuận lợi cho đầu tư, cũng như những cải cách về thể chế và quy định để xây dựng danh mục các dự án hợp tác công - tư (PPP) khả thi để đầu tư”, ông Nakao nói thêm.

ADB có trụ sở chính tại Manila, hoạt động với sứ mệnh giảm nghèo ở khu vực châu Á và Thái Bình Dương thông qua tăng trưởng kinh tế đồng đều, tăng trưởng bền vững với môi trường và hội nhập khu vực. Được thành lập năm 1966, ADB đang kỷ niệm 50 năm quan hệ đối tác phát triển trong khu vực. ADB thuộc sở hữu của 67 thành viên, trong đó có 48 thành viên trong khu vực.

Những điểm nổi bật trong báo cáo Đáp ứng nhu cầu về cơ sở hạ tầng của châu Á:

- Các khoản đầu tư lớn nhất (đã điều chỉnh để gồm cả biến đổi khí hậu) là 14,7 nghìn tỉ USD cho năng lượng và 8.400 tỉ USD cho giao thông. Đầu tư trong lĩnh vực viễn thông sẽ là 2.300 tỉ USD, còn nước và vệ sinh có mức chi phí là 800 tỉ USD trong cả giai đoạn.

- Khi tính cả các chi phí giảm thiểu và thích ứng biến đổi khí hậu, Đông Á sẽ chiếm 61% nhu cầu cơ sở hạ tầng tính tới năm 2030. Tuy nhiên, nếu tính theo tỷ lệ trên GDP, Thái Bình Dương sẽ vượt tất cả các tiểu vùng khác, với nhu cầu đầu tư chiếm tới 9,1% GDP. Tiếp đó là khu vực Nam Á với 8,8%; Trung Á: 7,8%; Đông Nam Á: 5,7% và Đông Á: 5,2% GDP.

- Trung Quốc bị thiếu khoảng 1,2% GDP trong kịch bản có điều chỉnh theo biến đổi khí hậu. Nếu không tính Trung Quốc, mức thiếu hụt đối với 24 nền kinh tế còn lại sẽ cao hơn đáng kể, chiếm 5% GDP dự kiến. Những cải cách tài chính công có thể tạo ra nguồn thu bổ sung, ước tính bù đắp khoảng 40% số thiếu hụt (hoặc 2% GDP) cho 24 nền kinh tế này.

Lê Dương

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 87,000 89,000
AVPL/SJC HCM 87,000 89,000
AVPL/SJC ĐN 87,000 89,000
Nguyên liệu 9999 - HN 87,800 88,200
Nguyên liệu 999 - HN 87,700 88,100
AVPL/SJC Cần Thơ 87,000 89,000
Cập nhật: 28/10/2024 08:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 87.600 88.900
TPHCM - SJC 87.000 89.000
Hà Nội - PNJ 87.600 88.900
Hà Nội - SJC 87.000 89.000
Đà Nẵng - PNJ 87.600 88.900
Đà Nẵng - SJC 87.000 89.000
Miền Tây - PNJ 87.600 88.900
Miền Tây - SJC 87.000 89.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 87.600 88.900
Giá vàng nữ trang - SJC 87.000 89.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 87.600
Giá vàng nữ trang - SJC 87.000 89.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 87.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 87.500 88.300
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 87.410 88.210
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 86.520 87.520
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 80.480 80.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 64.980 66.380
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 58.790 60.190
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 56.150 57.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 52.610 54.010
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 50.410 51.810
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 35.480 36.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 31.860 33.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 27.890 29.290
Cập nhật: 28/10/2024 08:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,700 8,890
Trang sức 99.9 8,690 8,880
NL 99.99 8,765
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,720
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,790 8,900
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,790 8,900
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,790 8,900
Miếng SJC Thái Bình 8,700 8,900
Miếng SJC Nghệ An 8,700 8,900
Miếng SJC Hà Nội 8,700 8,900
Cập nhật: 28/10/2024 08:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,377.03 16,542.46 17,073.19
CAD 17,855.01 18,035.36 18,613.99
CHF 28,538.34 28,826.60 29,751.44
CNY 3,471.82 3,506.89 3,619.40
DKK - 3,614.03 3,752.43
EUR 26,766.87 27,037.25 28,234.58
GBP 32,076.74 32,400.75 33,440.25
HKD 3,182.44 3,214.58 3,317.71
INR - 301.01 313.05
JPY 161.12 162.75 170.49
KRW 15.80 17.55 19.05
KWD - 82,623.78 85,927.11
MYR - 5,788.52 5,914.78
NOK - 2,272.06 2,368.53
RUB - 249.29 275.97
SAR - 6,736.09 7,005.40
SEK - 2,350.89 2,450.71
SGD 18,744.31 18,933.64 19,541.09
THB 663.65 737.39 765.63
USD 25,167.00 25,197.00 25,467.00
Cập nhật: 28/10/2024 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,215.00 25,227.00 25,467.00
EUR 26,937.00 27,045.00 28,132.00
GBP 32,302.00 32,432.00 33,379.00
HKD 3,203.00 3,216.00 3,317.00
CHF 28,757.00 28,872.00 29,719.00
JPY 163.10 163.76 170.80
AUD 16,526.00 16,592.00 17,078.00
SGD 18,904.00 18,980.00 19,499.00
THB 734.00 737.00 768.00
CAD 17,996.00 18,068.00 18,575.00
NZD 14,991.00 15,476.00
KRW 17.64 19.38
Cập nhật: 28/10/2024 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25273 25273 25467
AUD 16461 16561 17131
CAD 17963 18063 18614
CHF 28867 28897 29691
CNY 0 3524.8 0
CZK 0 1040 0
DKK 0 3670 0
EUR 27000 27100 27972
GBP 32420 32470 33572
HKD 0 3280 0
JPY 163.85 164.35 170.86
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.054 0
MYR 0 6027 0
NOK 0 2312 0
NZD 0 15026 0
PHP 0 415 0
SEK 0 2398 0
SGD 18820 18950 19682
THB 0 695.5 0
TWD 0 790 0
XAU 8700000 8700000 8900000
XBJ 8200000 8200000 8700000
Cập nhật: 28/10/2024 08:00