Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Các dự án và nguồn cung của Novatek bị hạn chế bởi các biện pháp trừng phạt Nga

11:24 | 07/03/2022

8,327 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Nhà cung cấp LNG lớn nhất Nga là Novatek, mặc dù không nằm trong danh sách trừng phạt đợt này của Mỹ/EU, nhưng đang phải đối mặt với những hậu quả của các lệnh trừng phạt Nga.
Các dự án và nguồn cung của Novatek bị hạn chế bởi các biện pháp trừng phạt Nga
Tàu phá băng vận chuyển LNG của Novatek ở Bắc Cực. Ảnh: Sovcomflot.

Trước hết là trong hợp tác với ngân hàng VEB, đơn vị được cho là huy động nguồn tài chính bên ngoài cho dự án Arctic LNG 2, đồng thời đóng vai trò là bên cho thuế đối với phần lớn đội tàu mới của Novatek. Ngoài ra, các tàu hàng hóa của Novatek cũng bị hạn chế vào các cảng của Anh và Pháp.

Bản thân Novatek sẽ gặp những vấn đề khó khăn trong việc huy động tài chính cho dự án Arctic LNG 2 từ các Ngân hàng VEB, Otkritie và Sberbank. Nhóm các ngân hàng Nga gồm Sberbank, VEB, Otkritie, Gazprombank và GPB International SA sẽ cung cấp nguồn tín dụng trị giá 4,5 tỷ euro cho dự án. Hiện tại, Sberbank, VEB và Otkritie chưa có tuyên bố, bình luận nào xoay quanh vấn đề đảm bảo tài chính cho Arctic LNG 2. Tập đoàn năng lượng Total Energies (Pháp), đơn vị sở hữu 10% cổ phần tại dự án nói trên cho biết, hãng sẽ không tham gia vào các dự án mới tại Nga, Không rõ liệu điều này có ảnh hưởng đến việc cung cấp vốn cho dự án Arctic LNG 2 hay không.

Bên cạnh đó, theo Reuters, các ngân hàng Italia có liên quan đã đình chỉ cung cấp tín dụng cho dự án của Novatek. Cụ thể, các Ngân hàng Cassa Depositi e Prestiti (CDP) và Ngân hàng Intesa Sanpaolo đã ngừng phát hành khoản vay 561 triệu USD cho dự án. Kế hoạch tài chính cho dự án Arctic LNG 2 được xây dựng vào tháng 11/2021 với phân bổ như sau: các nước OECD cam kết nguồn tín dụng 2,5 tỷ euro, trong đó Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản cho vay 1,71 tỷ euro. Khoảng 2,5 tỷ euro khác đến từ các định chế tài chính của Trung Quốc, trong đó có các khoản vay từ Ngân hàng phát triển Trung Quốc và Ngân hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc.

Ngoài ra, các biện pháp trừng phạt áp đặt lên ngân hàng VEB cũng tác động tiêu cực đến kế hoạch xây dựng đội tàu LNG lớp phá băng cho Novatek. Có thông tin cho rằng, VEB và Sovcomflot (bị liệt vào danh sách trừng phạt của EU) đang hợp tác với công ty Samsung Heavy Industries đóng mới 15 tàu chở LNG tại nhà máy đóng tàu Zvezda ở khu vực Viễn Đông. Phía Samsung cũng đang đóng một tàu chở LNG, ba tàu lớp Aframax cho Sovcomflot và 4 tàu chở LNG lớp Bắc Cực. Tuy nhiên đến nay, VEB không thể thanh toán khoản chi phí gần 3 tỷ USD do phía Hàn Quốc đã quyết định áp dụng biện pháp trừng phạt đối với các ngân hàng Nga, tương tự như EU. Giới chuyên gia Nga cho rằng, chưa rõ ý nghĩa của việc chấm dứt hợp tác từ phía Hàn Quốc. Nếu các biện pháp trừng phạt ngụ ý rằng, các công ty Hàn Quốc không thể thực hiện hợp đồng đóng tàu hợp lệ với các ngân hàng bị trừng phạt, thì cần phải tìm cách nhượng lại các quyền của hợp đồng cho bên thứ ba không bị trừng phạt. Câu hỏi đặt ra là, liệu có bên thứ ba nào sẵn sàng đảm nhận các dự án trong bối cảnh hiện nay hay không.

Các biện pháp trừng phạt đang bắt đầu ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất, kinh doanh của Novatek. Giống như nhiều nhà xuất khẩu khác của Nga, hãng đang phải đối mặt với vấn đề bán hàng. Theo Reuters, 4 tàu chở LNG của Novatek gồm Fyodor Litke, Boris Davydov, Christophe de Margerie và Boris Vilkitsky đang cập cảng ở Pháp và Anh, nay phải đã chuyển sang trạng thái “standby”(chờ đơn đặt hàng). Điều này có nghĩa là cho đến nay, thủy thủ đoàn vẫn chưa biết điểm đến tiếp theo của mình. Vào ngày 01/03, phía Anh tuyên bố rằng, nước này cấm tất cả các tàu có mối liên hệ với Nga vào các cảng của Anh.

Theo một số chuyên gia của trang tin Kommersant, ngay cả việc dừng triển khai hợp đồng đóng tàu tại Zvezda với đối tác Hàn Quốc, sẽ không dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng đối với dự án Arctic LNG 2 vì phía Novatek còn đủ tàu để vận chuyển LNG tới châu Âu. Tuy nhiên, khả năng vận chuyển hàng hóa đến châu Á qua Tuyến hàng hải phương Bắc sẽ sụt giảm, trong khi các thị trường tại châu Á vẫn là nơi tiêu thụ LNG tin cậy nhất của Nga.

Tiến Thắng

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 85,000 87,000
AVPL/SJC HCM 85,000 87,000
AVPL/SJC ĐN 85,000 87,000
Nguyên liệu 9999 - HN 85,500 85,800
Nguyên liệu 999 - HN 85,400 85,700
AVPL/SJC Cần Thơ 85,000 87,000
Cập nhật: 25/11/2024 04:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 85.500 86.800
TPHCM - SJC 85.000 87.000
Hà Nội - PNJ 85.500 86.800
Hà Nội - SJC 85.000 87.000
Đà Nẵng - PNJ 85.500 86.800
Đà Nẵng - SJC 85.000 87.000
Miền Tây - PNJ 85.500 86.800
Miền Tây - SJC 85.000 87.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 85.500 86.800
Giá vàng nữ trang - SJC 85.000 87.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 85.500
Giá vàng nữ trang - SJC 85.000 87.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 85.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 85.400 86.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 85.310 86.110
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 84.440 85.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 78.560 79.060
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 63.400 64.800
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 57.370 58.770
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 54.780 56.180
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 51.330 52.730
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 49.180 50.580
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 34.610 36.010
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 31.080 32.480
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 27.200 28.600
Cập nhật: 25/11/2024 04:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,470 8,670
Trang sức 99.9 8,460 8,660
NL 99.99 8,490
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,460
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,560 8,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,560 8,680
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,560 8,680
Miếng SJC Thái Bình 8,530 8,700
Miếng SJC Nghệ An 8,530 8,700
Miếng SJC Hà Nội 8,530 8,700
Cập nhật: 25/11/2024 04:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,046.60 16,208.68 16,728.64
CAD 17,687.79 17,866.46 18,439.60
CHF 27,837.96 28,119.15 29,021.19
CNY 3,419.82 3,454.37 3,565.18
DKK - 3,476.18 3,609.29
EUR 25,732.54 25,992.46 27,143.43
GBP 31,022.76 31,336.12 32,341.35
HKD 3,183.90 3,216.06 3,319.23
INR - 300.15 312.15
JPY 158.58 160.19 167.80
KRW 15.64 17.37 18.85
KWD - 82,362.07 85,654.62
MYR - 5,628.28 5,751.02
NOK - 2,235.02 2,329.91
RUB - 235.29 260.47
SAR - 6,754.55 7,002.80
SEK - 2,238.05 2,333.07
SGD 18,377.68 18,563.31 19,158.80
THB 649.08 721.20 748.82
USD 25,170.00 25,200.00 25,509.00
Cập nhật: 25/11/2024 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,210.00 25,229.00 25,509.00
EUR 26,071.00 26,176.00 27,275.00
GBP 31,364.00 31,490.00 32,451.00
HKD 3,198.00 3,211.00 3,315.00
CHF 28,106.00 28,219.00 29,078.00
JPY 160.79 161.44 168.44
AUD 16,242.00 16,307.00 16,802.00
SGD 18,536.00 18,610.00 19,128.00
THB 712.00 715.00 746.00
CAD 17,850.00 17,922.00 18,438.00
NZD 14,619.00 15,111.00
KRW 17.40 19.11
Cập nhật: 25/11/2024 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25343 25343 25509
AUD 16149 16249 16817
CAD 17801 17901 18456
CHF 28210 28240 29034
CNY 0 3472.2 0
CZK 0 1011 0
DKK 0 3579 0
EUR 26021 26121 26996
GBP 31338 31388 32504
HKD 0 3266 0
JPY 161.72 162.22 168.77
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.9 0
LAK 0 1.11 0
MYR 0 5869 0
NOK 0 2284 0
NZD 0 14634 0
PHP 0 407 0
SEK 0 2300 0
SGD 18474 18604 19335
THB 0 679.9 0
TWD 0 779 0
XAU 8500000 8500000 8700000
XBJ 8000000 8000000 8700000
Cập nhật: 25/11/2024 04:00