Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

ADB tăng nguồn hỗ trợ nữ doanh nhân Việt Nam

10:13 | 14/05/2019

214 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) vừa nhận được 20,2 triệu USD từ Quỹ Sáng kiến Tài chính dành cho Nữ doanh nhân (We-Fi) để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) do phụ nữ làm chủ được tiếp cận nguồn tài chính và hoạt động đào tạo thiết yếu tại Việt Nam và Thái Bình Dương.

Đây là khoản viện trợ không hoàn lại thứ hai mà ADB nhận được từ We-Fi để tài trợ cho chương trình Tăng tốc phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp của phụ nữ ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương (WAVES), với mục tiêu là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển đồng đều và bền vững thông qua các doanh nghiệp của phụ nữ và tinh thần kinh doanh khởi nghiệp của phụ nữ. Hiện nay, theo thống kê có khoảng 5.000 DNNVV do phụ nữ làm chủ ở Việt Nam và khu vực Thái Bình Dương sẽ được hưởng lợi từ chương trình này.

adb tang nguon ho tro nu doanh nhan viet nam
ADB tăng nguồn hỗ trợ nữ doanh nhân Việt Nam theo đúng cam kết trong chiến lược đến năm 2030

Bà Keiko Nowacka, Chuyên gia Phát triển xã hội và giới của ADB, chia sẻ: “Các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ có vai trò quan trọng trong những nỗ lực của khu vực châu Á và Thái Bình Dương nhằm đạt tới phát triển đồng đều và bền vững, song cần phá vỡ những rào cản về kinh tế và xã hội đối với phụ nữ để hiện thực hóa tiềm năng này. Đối với ADB, We-Fi là một cơ hội để đẩy nhanh tiến bộ về bình đẳng giới và thách thức hiện trạng từ lâu đời vốn ngăn cản các DNNVV do phụ nữ làm chủ phát triển mạnh mẽ”.

Các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ chiếm khoảng 60% tổng số doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa ở châu Á và Thái Bình Dương. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này phải đối mặt với những hạn chế về nguồn vốn, gây ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp, trong khi phụ nữ làm chủ các doanh nghiệp này chỉ được tiếp cận hạn chế các hoạt động đào tạo kinh doanh và hỗ trợ trọng tâm của chính phủ. Chương trình WAVES sẽ khắc phục những hạn chế này bằng cách tập trung vào 3 lĩnh vực phát triển của các DNNVV do phụ nữ làm chủ gồm: tiếp cận nguồn tài chính, xây dựng năng lực và tạo môi trường thuận lợi.

Chương trình này sẽ cải thiện khả năng tiếp cận nguồn tài chính của các DNNVV do phụ nữ làm chủ thông qua những cách tiếp cận tài chính sáng tạo, bao gồm định giá dựa trên kết quả hoạt động và trái phiếu giới đầu tiên ở khu vực Thái Bình Dương. Việc này là rất quan trọng, trong bối cảnh châu Á và Thái Bình Dương là một trong những nơi bị thiếu hụt nguồn tài chính dành cho DNNVV lớn nhất trên toàn cầu, với 59% trong tỉ lệ thiếu hụt này là do hạn chế tín dụng dành cho các DNNVV do phụ nữ làm chủ. Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) ước tính số thiếu hụt tài chính của các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ ở Việt Nam là khoảng 1,19 tỉ USD.

Trong khi đó, các đối tác trong nước bao gồm các cơ quan chính phủ, tổ chức xã hội dân sự và các hiệp hội kinh doanh của phụ nữ chưa được huy động để hỗ trợ thiết kế và triển khai các quy định, chính sách và kế hoạch hành động đáp ứng về giới nhằm tạo ra một môi trường thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ phát triển mạnh mẽ và mở rộng.

Chương trình WAVES sẽ tập trung vào xây dựng năng lực cho phụ nữ thông qua các chương trình cung cấp kiến thức cơ bản về tài chính và thúc đẩy kinh doanh, hướng dẫn tư vấn, cùng các cơ hội xây dựng mạng lưới, với quan điểm trang bị cho họ những kỹ năng cần thiết để vận hành và mở rộng doanh nghiệp của mình. Cuối cùng, WAVES sẽ góp phần tăng cường các minh chứng và dữ liệu về DNNVV do phụ nữ làm chủ để tạo cơ sở tốt hơn cho các chính sách và hoạt động hỗ trợ sau này.

Trong tháng 4/2018, ADB đã nhận được khoản viện trợ trị giá 12,6 triệu USD từ We-Fi để tăng cường hỗ trợ các doanh nhân nữ tại Sri Lanka. ADB đang đầu tư cho hoạt động khởi nghiệp của phụ nữ ở khu vực châu Á và Thái Bình Dương, như một phần trong cam kết của mình về việc thúc đẩy trao quyền về kinh tế cho phụ nữ - một trong những ưu tiên hoạt động trong Chiến lược 2030 mới được thông qua của ADB. Tới năm 2030, dự kiến 75% số dự án của ADB sẽ thúc đẩy bình đẳng giới.

We-Fi thuộc quyền quản trị của 14 quốc gia góp vốn sáng lập và do Ngân hàng Thế giới quản lý. Mục tiêu của Quỹ là huy động được hơn 1 tỉ USD tài trợ thương mại và tài trợ từ các thể chế tài chính quốc tế để cho phép các nữ doanh nhân được tiếp cận vốn vay, cổ phần, quỹ đầu tư mạo hiểm, các sản phẩm bảo hiểm, cùng những cơ hội khác để liên kết với các thị trường nội địa và toàn cầu. Mục tiêu là cải thiện môi trường kinh doanh cho các DNNVV do phụ nữ làm chủ hoặc lãnh đạo.

Tùng Phong

adb tang nguon ho tro nu doanh nhan viet nam

ADB: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam sẽ giảm trong năm nay và năm sau
adb tang nguon ho tro nu doanh nhan viet nam

188 triệu USD cho Dự án Kết nối giao thông các tỉnh miền núi phía Bắc
adb tang nguon ho tro nu doanh nhan viet nam

ADB giúp Việt Nam tăng cường nhân lực ngành Y tế
adb tang nguon ho tro nu doanh nhan viet nam

ADB và BIDV ký kết hợp đồng tín dụng 300 triệu USD hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
adb tang nguon ho tro nu doanh nhan viet nam

Nữ doanh nhân Việt Nam: Làm kinh tế giỏi nhưng trái tim luôn hướng về cộng đồng

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,500 80,500
AVPL/SJC HCM 78,500 80,500
AVPL/SJC ĐN 78,500 80,500
Nguyên liệu 9999 - HN 77,400 77,550
Nguyên liệu 999 - HN 77,300 77,450
AVPL/SJC Cần Thơ 78,500 80,500
Cập nhật: 09/09/2024 07:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 77.200 78.400
TPHCM - SJC 78.500 80.500
Hà Nội - PNJ 77.200 78.400
Hà Nội - SJC 78.500 80.500
Đà Nẵng - PNJ 77.200 78.400
Đà Nẵng - SJC 78.500 80.500
Miền Tây - PNJ 77.200 78.400
Miền Tây - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 77.200 78.400
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 77.200
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 77.200
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 77.100 77.900
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 77.020 77.820
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 76.220 77.220
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 70.960 71.460
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 57.180 58.580
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 51.720 53.120
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 49.390 50.790
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 46.270 47.670
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 44.320 45.720
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 31.160 32.560
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 27.960 29.360
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 24.460 25.860
Cập nhật: 09/09/2024 07:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,645 7,820
Trang sức 99.9 7,635 7,810
NL 99.99 7,650
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,650
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,750 7,860
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,750 7,860
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,750 7,860
Miếng SJC Thái Bình 7,850 8,050
Miếng SJC Nghệ An 7,850 8,050
Miếng SJC Hà Nội 7,850 8,050
Cập nhật: 09/09/2024 07:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 78,500 80,500
SJC 5c 78,500 80,520
SJC 2c, 1C, 5 phân 78,500 80,530
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 77,300 78,600
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 77,300 78,700
Nữ Trang 99.99% 77,200 78,200
Nữ Trang 99% 75,426 77,426
Nữ Trang 68% 50,831 53,331
Nữ Trang 41.7% 30,263 32,763
Cập nhật: 09/09/2024 07:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,138.45 16,301.47 16,825.30
CAD 17,766.85 17,946.31 18,522.99
CHF 28,510.62 28,798.61 29,724.01
CNY 3,400.75 3,435.10 3,546.01
DKK - 3,598.10 3,736.07
EUR 26,648.94 26,918.12 28,111.57
GBP 31,610.56 31,929.86 32,955.89
HKD 3,076.58 3,107.66 3,207.52
INR - 292.40 304.11
JPY 167.72 169.42 177.53
KRW 16.02 17.80 19.41
KWD - 80,376.60 83,594.21
MYR - 5,624.37 5,747.33
NOK - 2,271.17 2,367.72
RUB - 260.11 287.95
SAR - 6,535.14 6,796.75
SEK - 2,356.22 2,456.39
SGD 18,476.10 18,662.72 19,262.43
THB 648.49 720.54 748.17
USD 24,400.00 24,430.00 24,770.00
Cập nhật: 09/09/2024 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,500.00 24,510.00 24,850.00
EUR 26,884.00 26,992.00 28,112.00
GBP 31,902.00 32,030.00 33,021.00
HKD 3,102.00 3,114.00 3,219.00
CHF 28,698.00 28,813.00 29,716.00
JPY 167.85 168.52 176.38
AUD 16,305.00 16,370.00 16,878.00
SGD 18,633.00 18,708.00 19,262.00
THB 716.00 719.00 751.00
CAD 17,937.00 18,009.00 18,559.00
NZD 15,101.00 15,608.00
KRW 17.74 19.59
Cập nhật: 09/09/2024 07:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24440 24440 24770
AUD 16373 16423 16933
CAD 18033 18083 18534
CHF 28949 28999 29566
CNY 0 3438 0
CZK 0 1060 0
DKK 0 3713 0
EUR 27081 27131 27833
GBP 32153 32203 32870
HKD 0 3185 0
JPY 170.18 170.68 176.2
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.3 0
LAK 0 1.015 0
MYR 0 5887 0
NOK 0 2368 0
NZD 0 15116 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2400 0
SGD 18739 18789 19351
THB 0 694.3 0
TWD 0 772 0
XAU 7950000 7950000 8050000
XBJ 7300000 7300000 7620000
Cập nhật: 09/09/2024 07:00