20 mặt hàng Việt Nam xuất khẩu trên 1 tỷ USD
Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2018 ước đạt 113,93 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2017 (thấp hơn mức tăng 19,4% của cùng kỳ năm 2017 so với năm 2016), bằng 48% kế hoạch năm. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 33,1 tỷ USD, tăng 19,9% (cùng kỳ năm 2017 so với năm 2016 tăng 16,3%); khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 80,9 tỷ USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ (cùng kỳ năm 2017 so với năm 2016 tăng 20,7%).
Xuất khẩu 6 tháng tăng 16% so với cùng kỳ năm 2017. |
Tính đến hết tháng 6/2018, đã có 20 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Những mặt hàng dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu tiếp tục là điện thoại các loại và linh kiện (22,5 tỷ USD), máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (13,45 tỷ USD), hàng dệt, may (13,42 tỷ USD), máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng (7,8 tỷ USD), giày dép các loại (7,79 tỷ USD). Cụ thể tăng trưởng các nhóm hàng xuất khẩu như sau:
Nhóm hàng nông sản, thủy sản: Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2018 ước đạt 13,45 tỷ USD, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó, nhiều mặt hàng có mức tăng trưởng tốt như rau quả ước tăng 20,9%, đạt kim ngạch 2,01 tỷ USD; thủy sản ước tăng 11%, đạt kim ngạch 3,96 tỷ USD; hạt điều và gạo ước có mức tăng trưởng cao cả về lượng và kim ngạch: hạt điều ước tăng 18,0% về lượng và 17,6% về kim ngạch, đạt trị giá 1,41 tỷ USD, gạo ước tăng 44,3% về kim ngạch và 26,2% về lượng, đạt trị giá 1,84 tỷ USD.
Giá xuất khẩu nông sản trong năm 2018 không còn là yếu tố thuận lợi tác động đến tăng trưởng xuất khẩu. Thực tế, trong 6 tháng đầu năm 2018, giá xuất khẩu một số mặt hàng nông sản đã giảm mạnh làm giảm kim ngạch xuất khẩu như cà phê có giá giảm 14,2% khiến kim ngạch giảm 6% dù lượng tăng 9,6%; giá hạt tiêu giảm 39,3% làm kim ngạch giảm 35,7% dù lượng tăng 5,9%; giá cao su giảm 21,3% làm kim ngạch giảm 8,3% dù lượng tăng 16,6%. Tính chung cả nhóm nông sản, thủy sản (không kể hai mặt hàng không thống kê về lượng xuất khẩu), giá xuất khẩu giảm đã làm kim ngạch giảm 431 triệu USD, trong khi lượng xuất khẩu tăng góp phần kim ngạch tăng 860 triệu USD.
Nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản: Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm ước đạt 2,19 tỷ USD, giảm 10,8% so với cùng kỳ năm 2017.
Cùng với sự phục hồi của giá dầu thô thế giới (đạt trên 70 USD/thùng trong năm 2018), xuất khẩu nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản được hưởng lợi từ việc giá xuất khẩu tăng. Tính chung cả nhóm, yếu tố tăng giá góp phần tăng 466 triệu USD, trong khi yếu tố giảm lượng làm kim ngạch của nhóm giảm 731 triệu USD.
Nhóm hàng công nghiệp chế biến: Kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm ước đạt 93,3 tỷ USD, tăng 18,5% so với cùng kỳ. Các mặt hàng có đóng góp lớn vào mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu là: điện thoại và các loại linh kiện ước đạt 22,50 tỷ USD, tăng 15,4%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 13,45 tỷ USD, tăng 15,7%; hàng dệt may đạt 13,42 tỷ USD, tăng 13,8%; máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng đạt 7,83 tỷ USD, tăng 30,6%; giày dép các loại đạt 7,79 tỷ USD, tăng 10,6%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 4,13 tỷ USD, tăng 12,4%.
Nông sản chế biến xuất khẩu tăng trưởng mạnh lần đầu vượt 2 tỷ USD. |
Cơ cấu xuất khẩu tiếp tục chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, phù hợp với lộ trình thực hiện mục tiêu của Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030. Theo đó, xuất khẩu các sản phẩm thô và các ngành khoáng sản đang giảm dần với tỷ trọng chiếm 1,9% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu (năm 2017 chiếm 2,5%), giảm so với 2,5% của 6 tháng đầu năm 2017. Đồng thời, tỷ trọng xuất khẩu đối với các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cũng như các sản phẩm ngành nông sản, thủy sản đang được cải thiện với tỷ trọng hai nhóm hàng này đạt lần lượt là 81,9% và 11,8% (tỷ lệ này năm 2017 lần lượt là 80,2% và 12,5%).
Việt Nam đã tận dụng tốt các ưu đãi về thuế quan trong các FTA đã ký kết để mở rộng các thị trường xuất khẩu mới. Trong 6 tháng đầu năm 2018, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Mỹ tăng 9,2%, EU tăng 12,3%, Trung Quốc tăng 28%, Hàn Quốc tăng 31,8%, ASEAN tăng 17,4%,… Đặc biệt, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang một số thị trường tiềm năng cũng ghi nhận đóng góp đáng kể vào tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung như: Ấn Độ tăng 96,6%, Iraq tăng 27,9%, Ukraina tăng 21,1%, Australia tăng 22,4%, Nga tăng 25,4%...
Khu vực có vốn đầu tư trong nước đã cải thiện tốc độ tăng trưởng so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực 100% vốn trong nước xuất khẩu ước đạt 33,07 tỷ USD, tăng 19,9%, cao hơn mức tăng 16,3% của năm 2017. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất khẩu ước đạt 80,86 tỷ USD, tăng 14,5%, thấp hơn mức tăng 20,7% của năm 2017.
Tùng Dương
-
Xuất khẩu của Nhật Bản giảm mạnh nhất kể từ năm 2021
-
Nâng cao năng lực phát triển xuất khẩu xanh cho doanh nghiệp
-
Lệnh tạm dừng cấp phép LNG của Hoa Kỳ thúc đẩy bùng nổ xuất khẩu ở Canada và Mexico
-
Tin tức kinh tế ngày 13/8: Đề xuất áp thuế thuốc lá 15.000 đồng/bao
-
Xuất khẩu rau quả có thể vượt 7 tỷ USD