Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Thị trường bán lẻ: Mở cửa nhưng vẫn phải xây thêm rào!

17:49 | 20/06/2016

248 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
“Nhà mình cửa không đóng nhưng phải có hàng rào kỹ thuật, các nước đều làm để bảo vệ các nhà bán lẻ của họ", đại diện một doanh nghiệp bán lẻ kiến nghị.
tin nhap 20160620174555
Ảnh minh họa.

Mở cửa là xu thế không thể đảo ngược

Phát biểu tại Toạ đàm “Nâng cao sức cạnh tranh thị trường bán lẻ Việt Nam” hôm nay (20/6), ông Võ Văn Quyền - Vụ trưởng Vụ thị trường trong nước (Bộ Công Thương) cho rằng: “Doanh nghiệp bán lẻ ngoại có cơ sở bán lẻ quy mô gấp đôi doanh nghiệp trong nước lại có tiềm lực tài chính, khả năng quản trị… sẽ vừa là động lực phát triển ngành bán lẻ cũng khiến cạnh tranh ngày càng lớn".

"Nhà bán lẻ ngoại tăng cường hệ thống, từ đó có mối lo doanh nghiệp ngoại tràn vào, đây cũng là mối lo chính đáng. Nhưng trước hết phải có quan điểm nhất quán rằng mở cửa hội nhập là xu thế không thể đảo ngược”, ông Quyền nói.

Trả lời câu hỏi về việc có chính sách ưu đãi cho nhà đầu tư ngoại về thuế đất, lỗ hổng về thuế, khiến doanh nghiệp nội thua cuộc hay không, ông Quyền cho rằng, điều này cần sự phân tích kỹ càng.

"Trước 2005 tuỳ từng dự án có sự ưu đãi, do cách tiếp cận, ưu đãi. Sau 2005 có Luật Đầu tư chung ra đời, không có ưu đãi cho doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực bán lẻ. Nhưng với tiềm lực tài chính mạnh họ cũng có lợi thế. Cũng không loại trừ có chuyện chuyển giá, lỗ vẫn tiếp tục mở rộng, dựa vào tiềm lực tài chính”, ông Quyền thừa nhận.

Tuy nhiên, theo đại diện Bộ Công Thương: "Đây là miền đất hứa, chúng ta phải nhìn chiến lược dài hạn. Chúng ta làm sao có cách mở cửa để thu hút được, mở như thế nào, mức độ nào, có cách nào hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam là 2 bài toán cần xử lý. Các bộ, ngành, Hiệp hội, doanh nghiệp cần có đánh giá, đề xuất".

Còn theo Chủ tịch Hiệp hội bán lẻ Đinh Thị Mỹ Loan, trước khi gia nhập WTO, có thời gian dài Việt Nam khuyến khích đầu tư nước ngoài, trải thảm đỏ cho doanh nghiệp FDI dù trong lĩnh vực doanh nghiệp nội có tiềm năng và lĩnh vực kinh doanh có điều kiện như phân phối bán lẻ.

"Trong văn bản chính sách không có sự phân biệt lớn gữa doanh nghiệp nội và doanh nghiệp FDI, nhưng thực tế địa phương, không phải nơi nào cũng giống TPHCM chính quyền ủng hộ hết lòng cho các doanh nghiệp bán lẻ. Với nhiều tỉnh thành khác nhau có chủ trương thu hút đầu tư khác nhau, làm cho doanh nghiệp nội mất thời cơ”, bà Loan cho biết.

Bên cạnh đó, bà Loan cũng cho rằng, vấn đề còn là do nhận thức, vai trò của cộng đồng doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. Nói rộng ra là cách nhận thức những người làm công tác thương mại ở Việt Nam khi có thời gian dài chúng ta kỳ thị những nhà bán lẻ.

Cửa mở nhưng vẫn cần thêm rào

Dưới góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Thành Nhân, Tổng Giám đốc Saigon Co.op cho biết, tính đến năm 2015, khối ngoại chiếm khoảng 51% thị phần bán lẻ, phần còn lại chia cho khối nội và khối không xác định gồm các nhà bán lẻ nhỏ lẻ.

“Vì sao có sự cạnh tranh chưa cân sức giữa nhà bán lẻ nội - ngoại? Gốc vấn đề ở đây là nhà bán lẻ ngoại có diện tích bán lẻ lớn hơn, thể hiện tiềm lực mạnh hơn nhà bán lẻ nội. Họ cũng có tiềm lực tài chính hơn nhờ có nguồn huy động vốn lãi suất tốt ở nước ngoài bởi trong kinh doanh, lãi suất tốt thì cũng tạo lợi thế cạnh tranh rồi”, ông Nhân nói.

Ông Nhân cũng thừa nhận, doanh nghiệp FDI có bề dày kinh nghiệm quản lý hơn so với doanh nghiệp nội nhờ kinh doanh ở nhiều thị trường và có sự nghiên cứu sâu các thị trường. Ngoài ra, họ cũng có sức mạnh toàn cầu trong liên kết, thu mua nguồn hàng, đặc biệt là thế mạnh logistic.

Dù cho rằng, nhà bán lẻ nội có lợi thế lợi hiểu tâm lý người tiêu dùng Việt và am hiểu thị trường của mình hơn nhưng ông Nhân vẫn cho rằng, Chính phủ, chính quyền địa phương cần hỗ trợ để tạo động lực phát triển, giúp doanh nghiệp nội tăng khả năng cạnh tranh.

“Nhà mình cửa không đóng nhưng phải có hàng rào kỹ thuật, các nước đều làm để bảo vệ các nhà bán lẻ của họ. Đơn cử như Ấn Độ, bất kỳ nhà bán lẻ ngoại vào đều phải liên doanh với doanh nghiệp nội địa với tỷ lệ tối đa 51%. Ngoài ra còn những quy định khác, như tổng doanh thu bán hàng phải có 30% của các nhà sản xuất nhỏ, vừa trong nước. Malaysia cũng tương tự, nhưng tỷ lệ trong liên doanh tới 70%”, ông Nhân nói.

Theo ông Nhân, chính sách chung giữa nhà bán lẻ ngoại, nội cần tạo sự phát triển, động lực cạnh tranh, nhưng phải giữ sự ổn định thị trường và phát triển nhà bán lẻ nội địa. Theo đó, các nhà bán lẻ nội địa sẽ tiêu thụ hàng sản xuất trong nước tốt nhất, vì sợi dây liên kết với các nhà sản xuất trong nước có từ lâu.

Còn theo bà Loan, rào cản hợp lý và hội nhập mà chúng ta có được để bảo vệ các nhà bán lẻ nội non trẻ bao gồm việc kiểm tra yêu cầu kinh tế và danh mục nhà bán lẻ nước ngoài.

"Thời gian qua, thực tế có những lúc những nơi rào cản bị vô hiệu. Sự thật là nhiều lúc, nhiều nơi chưa ý thức rõ nên rào cản của chúng ta ko hữu hiệu”, bà nói.

Đáng lo hơn, bà Loan nhấn mạnh, trước làn sóng ký kết các FTA thế hệ mới, đặc biệt TPP và FTA với EU, một số cơ quan nhà nước cho rằng sẽ không áp dụng rào cản với các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực bán lẻ. Đây là điều đáng lo, dù về ý thức trước sau gì những rào cản này sẽ dỡ bỏ và đối mặt cạnh tranh bình đẳng.

"Những rào cản này không phải bỏ ngay từ bây giờ, mà phải có lộ trình. TPP dù đã ký nhưng phải được phê chuẩn và có hiệu lực. Sau khi có hiệu lực thì chúng ta cũng còn thời gian 5 năm mới dỡ bở rào cản. Những gì vẫn còn và có hiệu lực thì vẫn phải giữ, trong cuộc đua cam go này. Các địa phương cần ý thức điều này để bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp nội địa”, bà Loan bổ sung thêm.

Phương Dung

Dân trí

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 80,000 82,000
AVPL/SJC HCM 80,000 82,000
AVPL/SJC ĐN 80,000 82,000
Nguyên liệu 9999 - HN 80,050 ▲700K 80,150 ▲650K
Nguyên liệu 999 - HN 79,950 ▲700K 80,050 ▲650K
AVPL/SJC Cần Thơ 80,000 82,000
Cập nhật: 23/09/2024 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 79.900 ▲400K 81.100 ▲550K
TPHCM - SJC 80.000 82.000
Hà Nội - PNJ 79.900 ▲400K 81.100 ▲550K
Hà Nội - SJC 80.000 82.000
Đà Nẵng - PNJ 79.900 ▲400K 81.100 ▲550K
Đà Nẵng - SJC 80.000 82.000
Miền Tây - PNJ 79.900 ▲400K 81.100 ▲550K
Miền Tây - SJC 80.000 82.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 79.900 ▲400K 81.100 ▲550K
Giá vàng nữ trang - SJC 80.000 82.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 79.900 ▲400K
Giá vàng nữ trang - SJC 80.000 82.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 79.900 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 79.700 ▲400K 80.500 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 79.620 ▲400K 80.420 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 78.800 ▲400K 79.800 ▲400K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 73.340 ▲370K 73.840 ▲370K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 59.130 ▲300K 60.530 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 53.490 ▲270K 54.890 ▲270K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 51.080 ▲260K 52.480 ▲260K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 47.860 ▲250K 49.260 ▲250K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 45.840 ▲230K 47.240 ▲230K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 32.240 ▲170K 33.640 ▲170K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.940 ▲150K 30.340 ▲150K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 25.320 ▲140K 26.720 ▲140K
Cập nhật: 23/09/2024 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,905 ▲60K 8,080 ▲60K
Trang sức 99.9 7,895 ▲60K 8,070 ▲60K
NL 99.99 7,940 ▲60K
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,940 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,010 ▲60K 8,120 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,010 ▲60K 8,120 ▲60K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,010 ▲60K 8,120 ▲60K
Miếng SJC Thái Bình 8,000 8,200
Miếng SJC Nghệ An 8,000 8,200
Miếng SJC Hà Nội 8,000 8,200
Cập nhật: 23/09/2024 16:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 80,000 82,000
SJC 5c 80,000 82,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 80,000 82,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 79,500 ▲600K 80,800 ▲600K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 79,500 ▲600K 80,900 ▲600K
Nữ Trang 99.99% 79,400 ▲600K 80,400 ▲600K
Nữ Trang 99% 77,604 ▲594K 79,604 ▲594K
Nữ Trang 68% 52,327 ▲408K 54,827 ▲408K
Nữ Trang 41.7% 31,180 ▲250K 33,680 ▲250K
Cập nhật: 23/09/2024 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,333.34 16,498.32 17,028.44
CAD 17,675.88 17,854.42 18,428.12
CHF 28,193.38 28,478.16 29,393.21
CNY 3,417.83 3,452.35 3,563.82
DKK - 3,596.00 3,733.89
EUR 26,623.87 26,892.80 28,085.07
GBP 31,817.13 32,138.52 33,171.18
HKD 3,082.47 3,113.61 3,213.66
INR - 293.98 305.75
JPY 165.47 167.14 175.10
KRW 15.91 17.68 19.19
KWD - 80,527.47 83,750.96
MYR - 5,797.37 5,924.10
NOK - 2,293.20 2,390.68
RUB - 252.57 279.61
SAR - 6,545.38 6,807.39
SEK - 2,359.98 2,460.29
SGD 18,568.76 18,756.33 19,359.00
THB 660.11 733.46 761.58
USD 24,430.00 24,460.00 24,800.00
Cập nhật: 23/09/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,410.00 24,430.00 24,770.00
EUR 26,908.00 27,016.00 28,135.00
GBP 32,121.00 32,250.00 33,244.00
HKD 3,094.00 3,106.00 3,210.00
CHF 28,356.00 28,470.00 29,355.00
JPY 166.11 166.78 174.58
AUD 16,450.00 16,516.00 17,026.00
SGD 18,706.00 18,781.00 19,339.00
THB 726.00 729.00 762.00
CAD 17,794.00 17,865.00 18,410.00
NZD 15,082.00 15,589.00
KRW 17.65 19.49
Cập nhật: 23/09/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24460 24460 24800
AUD 16466 16516 17128
CAD 17847 17897 18454
CHF 28595 28695 29298
CNY 0 3455.7 0
CZK 0 1044 0
DKK 0 3663 0
EUR 26966 27016 27819
GBP 32305 32355 33118
HKD 0 3155 0
JPY 168.69 169.19 175.75
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.023 0
MYR 0 5974 0
NOK 0 2317 0
NZD 0 15147 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2405 0
SGD 18753 18803 19455
THB 0 706.6 0
TWD 0 768 0
XAU 8100000 8100000 8200000
XBJ 7400000 7400000 7800000
Cập nhật: 23/09/2024 16:00