Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Thế giới sẽ tiếp tục đổ hàng nghìn tỉ USD vào thăm dò khai thác dầu khí

18:52 | 31/03/2022

Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Tại Diễn đàn Năng lượng toàn cầu lần thứ 6, đại diện các cường quốc dầu mỏ khẳng định sẽ tiếp tục đổ hàng nghìn tỉ USD vào thăm dò, khai thác và chế biến dầu khí đến tận năm 2045.

Tại Diễn đàn Năng lượng toàn cầu lần thứ 6 vừa bế mạc tại Dubai, Các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE), Tổng thư ký Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) Mohamed Barkindo nhấn mạnh điều cần thiết vào thời điểm hiện nay là xem lại cách các nước thăm dò, sản xuất, tinh chế, phân phối và tiêu thụ hydrocarbon, cũng như điều chỉnh các hoạt động này cho phù hợp với thực tế, đặc biệt là về tính bền vững.

Nhóm Dầu khí duy trì đà tăng tích cực cùng thị trường chung
Dầu mỏ và khí đốt vẫn sẽ chiếm hơn 50% tổng khối lượng năng lượng toàn cầu vào năm 2045.

Trên thực tế, hệ thống năng lượng toàn cầu hiện nay chịu sự chi phối của nhiều yếu tố, trong đó địa chính trị, phương thức khai thác và sản xuất dầu mỏ và khí đốt, cách thức phân phối có tác động lớn nhất. Nếu một trong những yếu tố này bị "lung lay", hệ thống năng lượng có thể rơi vào trạng thái mất cân bằng. Bởi vậy, tính bền vững được xem là mấu chốt để ứng phó với cuộc khủng hoảng năng lượng hiện nay.

Hoạt động khai thác dầu mỏ và khí đốt có bền vững được hay không phụ thuộc vào chính sách của từng nước, đặc biệt là các nguồn đầu tư hợp lý. Việc thiếu vốn đầu tư trong khâu thăm dò sẽ dẫn tới hậu quả tất yếu là sự mất cân đối giữa gia tăng trữ lượng và sản lượng khai thác, để rồi tiêu lạm vào kho dự trữ. Như vậy, trong trường hợp xảy ra cú sốc địa chính trị ảnh hưởng đến nguồn cung năng lượng toàn cầu, nước đó có nguy cơ rơi vào cuộc khủng hoảng dầu mỏ và khí đốt.

Theo ông Barkindo, triển vọng ngành dầu khí thế giới đến năm 2045 cho thấy ngành này sẽ cần nguồn vốn đầu tư khoảng 11.800 tỉ USD cho các hoạt động thăm dò, khai thác, sản xuất và tinh chế.

Tuy nhiên, báo cáo mới nhất của Diễn đàn Năng lượng quốc tế (IEF) và hãng phân trích IHS Markit cho thấy tổng vốn đầu tư cho riêng hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí toàn cầu đã giảm 23% so với các mức trước đại dịch, xuống còn 341 tỉ USD trong năm 2021.

Trong khi đó, ông Sultan bin Ahmed Al Jaber, Bộ trưởng Công nghiệp và Công nghệ tiên tiến UAE, nhận định ngành dầu khí cần khoản đầu tư trị giá 600 tỉ USD trong giai đoạn từ nay đến năm 2030 để bắt kịp với nhu cầu đang gia tăng. Ông cũng dự đoán trong ngắn hạn, thế giới sẽ chứng kiến thị trường năng lượng càng siết chặt với nhu cầu sẽ tăng gần 3 triệu thùng dầu so với năm ngoái và sẽ quay về mức như trước đại dịch vào quý IV của năm nay.

Bên cạnh việc đầu tư cho dây chuyền khai thác, sản xuất dầu mỏ và khí đốt, thì việc đầu tư cho chuyển đổi năng lượng cũng được đề cập đến nhiều tại diễn đàn này và đây là cách tiếp cận tiếp theo để giải quyết cuộc khủng hoảng năng lượng.

Trong 3 tháng cuối năm 2021, châu Âu đã chứng kiến giá khí đốt tăng vọt do thiếu nguồn cung, một mặt do lượng khí đốt từ Nga bị cắt giảm, mặt khác do tiến trình chuyển đổi năng lượng tại một số nước quá nhanh, không có giai đoạn chuyển tiếp đủ lâu để đáp ứng nhu cầu năng lượng gia tăng. Pháp thường được coi là nước xuất khẩu năng lượng của châu Âu nhưng nay đã thiếu hụt năng lượng kể từ khi Công ty điện lực Electricité de France SA ngừng hoạt động 4 lò phản ứng hạt nhân.

Cũng vào thời điểm đó, sản lượng điện của các nhà máy điện gió của Đức đã giảm xuống mức thấp nhất do thời tiết không thuận lợi, khiến giá điện tăng 30% lên mức kỷ lục 487 USD/MWh. Từ những thực tế này, có thể thấy rõ việc xây dựng lộ trình chuyển đổi năng lượng dựa trên điều kiện kinh tế và xã hội thực tế là mắt xích quan trọng trong việc đảm bảo năng lượng bền vững và mục tiêu chuyển đổi năng lượng này cần một quá trình đủ chín muồi.

Việc sử dụng năng lượng hợp lý, tránh lãnh phí cũng là biện pháp đảm bảo năng lượng bền vững. IEA mới đây cũng thúc đẩy các chính phủ xem xét những thay đổi phù hợp, theo đó cơ quan này đã công bố kế hoạch khẩn cấp gồm 10 điểm để cắt giảm nhu cầu tiêu thụ dầu, bao gồm giảm giới hạn tốc độ đường cao tốc ít nhất 6 dặm (khoảng 9,6 km)/h, làm việc tại nhà tối đa 3 ngày/tuần nếu có thể và triển khai chính sách ngày Chủ nhật không có ô tô ở các thành phố.

Các bước khác trong kế hoạch khẩn cấp bao gồm tăng cường khai thác dịch vụ xe đi chung, sử dụng tàu cao tốc và tàu đêm thay vì máy bay, hạn chế đi công tác bằng máy bay khi có thể và khuyến khích người dân đi bộ, đi xe đạp và giao thông công cộng. Nếu thực hiện đầy đủ, theo IEA, nhu cầu dầu thế giới sẽ giảm khoảng 2,7 triệu thùng/ngày trong vòng 4 tháng, tương đương với lượng dầu được tiêu thụ của tất cả ô tô ở Trung Quốc.

Tổng thư ký OPEC Mohamed Barkindo đánh giá dầu mỏ và khí đốt sẽ chiếm hơn 50% tổng khối lượng năng lượng toàn cầu vào năm 2045 và sẽ tiếp tục đóng một vai trò quan trọng ngay cả khi thế giới hướng tới các nguồn năng lượng sạch hơn. Trong khi đó, mức tiêu thụ thế giới mỗi năm khoảng 4 tỉ tấn dầu và 3.500 tỉ m3 khí cho thấy vai trò không thể phủ nhận của dầu khí trong nguồn năng lượng thế giới.

Tuy nhiên, không có nguồn tài nguyên thiên nhiên nào là mãi mãi, do vậy, việc tìm kiếm các năng lượng thay thế, năng lượng "xanh" cần phải được ưu tiên. Và để đảm bảo nguồn năng lượng của thế giới bền vững trước mọi cuộc khủng hoảng thì con đường chuyển đổi năng lượng cần song hành với quá trình khai thác, sản xuất và sử dụng dầu khí bền vững.

P.V

Ả Rập Xê-út bảo vệ Nga và OPEC+ Ả Rập Xê-út bảo vệ Nga và OPEC+
Indonesia ký nhiều hợp đồng thăm dò dầu khí với BP và Petronas Indonesia ký nhiều hợp đồng thăm dò dầu khí với BP và Petronas
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị thiết lập quan hệ đối tác lâu dài, bền vững trong lĩnh vực năng lượng với UAE Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị thiết lập quan hệ đối tác lâu dài, bền vững trong lĩnh vực năng lượng với UAE

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 87,000 89,000
AVPL/SJC HCM 87,000 89,000
AVPL/SJC ĐN 87,000 89,000
Nguyên liệu 9999 - HN 87,200 ▼200K 87,600 ▼200K
Nguyên liệu 999 - HN 87,100 ▼200K 87,500 ▼100K
AVPL/SJC Cần Thơ 87,000 89,000
Cập nhật: 06/11/2024 19:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 87.000 ▼400K 88.200 ▼300K
TPHCM - SJC 87.000 89.000
Hà Nội - PNJ 87.000 ▼400K 88.200 ▼300K
Hà Nội - SJC 87.000 89.000
Đà Nẵng - PNJ 87.000 ▼400K 88.200 ▼300K
Đà Nẵng - SJC 87.000 89.000
Miền Tây - PNJ 87.000 ▼400K 88.200 ▼300K
Miền Tây - SJC 87.000 89.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 87.000 ▼400K 88.200 ▼300K
Giá vàng nữ trang - SJC 87.000 89.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 87.000 ▼400K
Giá vàng nữ trang - SJC 87.000 89.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 87.000 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 86.900 ▼400K 87.700 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 86.810 ▼400K 87.610 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 85.920 ▼400K 86.920 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 79.930 ▼370K 80.430 ▼370K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 64.530 ▼300K 65.930 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 58.390 ▼270K 59.790 ▼270K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 55.760 ▼260K 57.160 ▼260K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 52.250 ▼240K 53.650 ▼240K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 50.060 ▼230K 51.460 ▼230K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 35.230 ▼170K 36.630 ▼170K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 31.640 ▼150K 33.040 ▼150K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 27.690 ▼130K 29.090 ▼130K
Cập nhật: 06/11/2024 19:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,610 ▼40K 8,810 ▼30K
Trang sức 99.9 8,600 ▼40K 8,800 ▼30K
NL 99.99 8,640 ▼40K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,630 ▼40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,700 ▼40K 8,820 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,700 ▼40K 8,820 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,700 ▼40K 8,820 ▼30K
Miếng SJC Thái Bình 8,700 8,900
Miếng SJC Nghệ An 8,700 8,900
Miếng SJC Hà Nội 8,700 8,900
Cập nhật: 06/11/2024 19:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,157.40 16,320.61 16,844.20
CAD 17,761.36 17,940.77 18,516.33
CHF 28,338.44 28,624.68 29,543.01
CNY 3,452.65 3,487.52 3,599.41
DKK - 3,582.26 3,719.44
EUR 26,515.86 26,783.69 27,969.77
GBP 31,790.33 32,111.44 33,141.63
HKD 3,182.24 3,214.39 3,317.51
INR - 300.72 312.75
JPY 158.99 160.60 168.24
KRW 15.71 17.46 18.94
KWD - 82,473.49 85,770.70
MYR - 5,702.34 5,826.71
NOK - 2,232.96 2,327.77
RUB - 247.31 273.77
SAR - 6,740.69 7,010.17
SEK - 2,286.75 2,383.84
SGD 18,567.66 18,755.21 19,356.91
THB 657.75 730.83 758.82
USD 25,140.00 25,170.00 25,470.00
Cập nhật: 06/11/2024 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,190.00 25,200.00 25,470.00
EUR 26,761.00 26,868.00 27,975.00
GBP 32,098.00 32,227.00 33,198.00
HKD 3,196.00 3,209.00 3,313.00
CHF 28,520.00 28,635.00 29,494.00
JPY 160.74 161.39 168.41
AUD 16,289.00 16,354.00 16,850.00
SGD 18,723.00 18,798.00 19,325.00
THB 727.00 730.00 162.00
CAD 17,887.00 17,959.00 18,477.00
NZD 14,808.00 15,302.00
KRW 17.39 19.10
Cập nhật: 06/11/2024 19:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25290 25290 25470
AUD 16355 16455 17018
CAD 17912 18012 18563
CHF 28619 28649 29442
CNY 0 3510.1 0
CZK 0 1040 0
DKK 0 3670 0
EUR 26856 26956 27829
GBP 32258 32308 33411
HKD 0 3280 0
JPY 161.93 162.43 168.94
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.105 0
MYR 0 6027 0
NOK 0 2312 0
NZD 0 14944 0
PHP 0 415 0
SEK 0 2398 0
SGD 18706 18836 19558
THB 0 687.5 0
TWD 0 790 0
XAU 8700000 8700000 8900000
XBJ 8200000 8200000 8700000
Cập nhật: 06/11/2024 19:00