Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Ngân hàng vẫn bị ám ảnh vì… nhiều tiền trong két

15:45 | 20/02/2014

Theo dõi PetroTimes trên
|
Theo Ngân hàng Nhà nước, tăng trưởng tín dụng tháng 1/2014 là âm 0,5%. Điều này có nghĩa, dòng tiền gửi chảy về két các nhà băng vẫn ổn định, nhưng đầu ra thì vẫn rất khó khăn.

Nhìn lại diễn biến thị trường tài chính - tiền tệ những năm gần đây có thể thấy, trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn, tăng trưởng tín dụng luôn là bài toán nan giải mà các ngân hàng, tổ chức tín dụng phải lo lắng. Và dù con số tăng trưởng tín dụng âm 0,5% trong tháng 1 có thể chưa phải quá nghiêm trọng nhưng rõ ràng, nó cho thấy, năm 2014 sẽ tiếp tục là năm mà các nhà băng phải đau đầu với bài toán thừa tiền.

Tìm hiểu tại một số nhà băng cho thấy, khi dòng tiền huy động vẫn ổn định nhưng lại không thể cho vay, nằm “chết” trong két, các ngân hàng đã lựa chọn giải pháp mang tiền đi mua trái phiếu Chính phủ dù lãi suất là rất thấp, có khi chỉ bằng với lãi suất huy động.

Thực tế ghi nhận của PV cho thấy, ngày 13/2, Bộ Tài chính tiến hành 10.000 tỉ đồng trái phiếu Chính phủ với mức lãi suất 6,58-7,95%/năm tùy thời hạn và đã huy động được 9.000 tỉ đồng. Giám đốc chi nhánh của một ngân hàng TMCP ở Hà Nội cho biết, với mức lãi suất huy động là 7%/năm, cộng với dự trữ bắt buộc thì mua trái phiếu Chính phủ như vậy là không có lãi.

Nhà băng cũng phải đối diện với nguy cơ ế vốn, tồn kho... tiền.

Nói như vậy để thấy rằng, các ngân hàng đang dư tiền, nhưng họ cũng không dám “thả cửa” cho vay bởi nỗi ám ảnh của nợ xấu. Thực tế tìm hiểu của PV PetroTimes cho thấy, mặc dù ngân hàng cũng đang phải đối diện với tình trạng tồn kho tiền, ế vốn tiền… nhưng cũng chẳng mấy doanh nghiệp đáp ứng đủ tiêu chuẩn mà họ đặt ra. Hệ quả là tiền nằm “chết” trong két của nhà băng và có chăng, cực chẳng đã, nó được dùng để mua trái phiếu Chính phủ.

Điều này không chỉ khiến các nhà băng mà Chính phủ phải lo lắng. Mới đây, trước những lo lăng về tăng trưởng tín dụng, Chính phủ đã có văn bản chỉ đạo: “Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các giải pháp thúc đẩy tín dụng và kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán theo định hướng cả năm, góp phần tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh; tiếp tục thực hiện các giải pháp đồng bộ xử lý nợ xấu; kiểm soát chặt chẽ chất lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng”.

Như chúng ta đã biết, khép lại năm 2013, “sức khỏe” của nền kinh tế nói chung và bản thân các doanh nghiệp nói riêng là hết sức yếu ớt. Minh chứng cho điều này là con số hơn 61.000 doanh nghiệp đã phá sản trong năm này và đó thực sự là một con số rất đáng báo động đối với nền kinh tế.

Cùng với đó, nỗi ám ảnh về nợ xấu và xử lý nợ xấu cũng đang đè nặng các ngân hàng. Các ngân hàng rất muốn giải ngân nhưng lại không dám mạo hiểm với những rủi ro do chính sự yếu ớt của doanh nghiệp mang lại. Vì lẽ đó, không chỉ nền kinh tế, cộng đồng các doanh nghiệp mong mỏi các chính sách hỗ trợ kinh tế vĩ sẽ phát huy tác dụng, kinh tế khởi sắc, sản xuất, kinh doanh phục hồi tăng trưởng trở lại mà ngay chính các ngân hàng cũng đang từng ngày “cầu khấn” cho doanh nghiệp mau khỏe.

Theo cán bộ tín dụng của một ngân hàng có cỡ ở Hà Nội, thay vì chỉ tiêu huy động vốn, giờ nhiều ngân hàng đang “xua” nhân viên đi tìm đối tác đủ “khỏe”, đủ tin cậy để tiếp cận, để mời chào họ vay vốn.

Anh Tuấn Anh - Giám đốc một Công ty xây dựng ở Hà Nội cho biết, cùng với những khó khăn chung của nền kinh tế, đặc biệt là thị trường bất động sản đóng băng, ế ẩm kéo doanh, tình hình tài chính của của Công ty là hết sức khó khăn. Vừa rồi, vất vả lắm mới ký nhận thi công được một công trình bên Bắc Ninh nhưng ngặt nỗi vì thiếu vốn nên chưa triển khai được. Vác hồ sơ đi vay khắp nơi nhưng chẳng được vì không đủ điều kiện cho vay.

"Họ đòi nào là phải có tài sản thế chấp, đòi bảo lãnh này, bảo lãnh kia... thì chúng tôi biết lấy đâu ra. Để duy trì hoạt động, để "cầm hơi" mà sống, có gì quý giá chúng tôi đã cầm, đã thế chấp cả rồi" - anh Tuấn Anh nói.

Nhìn lại thị trường tài chính, tiền tệ những tháng gần đây, người ta không quá khăn để bắt gặp sự nhiệt tình của các ngân hàng trong việc hưởng ứng các giải pháp hay lời kêu gọi hỗ trợ của Chính phủ giành cho nền kinh tế. Tại sao lại có hiện tượng này? Trong rất nhiều lý do thì câu chuyện sợ tồn kho, ế vốn có thể xem là một nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên.

Như đã nói, hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn hết sức khó khăn nên số doanh nghiệp đủ lực, đáp ứng được các tiêu chí cho vay của ngân hàng là rất ít. Vậy nên, ngân hàng nào cũng muốn nhanh chân giành lấy, thậm chí là “cướp” những mối làm ăn béo bở này. Thậm chí, theo đại diện của Ngân hàng Nhà nước thì, có không ít ngân hàng thương mại đã cho vay với mức lãi suất chỉ 7-8%/năm đối với những doanh nghiệp đủ mạnh, có tiềm lực tài chính và dự án sản xuất, kinh doanh hiệu quả.

Nói như vậy để thấy rằng, không chỉ có Chính phủ, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tỏ ra sốt ruột với đà phục hồi của nền kinh tế, ngay cả các ngân hàng cũng như đang “ngồi trên đống lửa”!

Thanh Ngọc

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 87,500 ▼500K 89,500 ▼500K
AVPL/SJC HCM 87,500 ▼500K 89,500 ▼500K
AVPL/SJC ĐN 87,500 ▼500K 89,500 ▼500K
Nguyên liệu 9999 - HN 88,000 ▼550K 88,400 ▼550K
Nguyên liệu 999 - HN 87,900 ▼550K 88,300 ▼550K
AVPL/SJC Cần Thơ 87,500 ▼500K 89,500 ▼500K
Cập nhật: 01/11/2024 17:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 88.000 ▼400K 89.150 ▼350K
TPHCM - SJC 87.500 ▼500K 89.500 ▼500K
Hà Nội - PNJ 88.000 ▼400K 89.150 ▼350K
Hà Nội - SJC 87.500 ▼500K 89.500 ▼500K
Đà Nẵng - PNJ 88.000 ▼400K 89.150 ▼350K
Đà Nẵng - SJC 87.500 ▼500K 89.500 ▼500K
Miền Tây - PNJ 88.000 ▼400K 89.150 ▼350K
Miền Tây - SJC 87.500 ▼500K 89.500 ▼500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 88.000 ▼400K 89.150 ▼350K
Giá vàng nữ trang - SJC 87.500 ▼500K 89.500 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 88.000 ▼400K
Giá vàng nữ trang - SJC 87.500 ▼500K 89.500 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 88.000 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 87.900 ▼400K 88.700 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 87.810 ▼400K 88.610 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 86.910 ▼400K 87.910 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 80.850 ▼370K 81.350 ▼370K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 65.280 ▼300K 66.680 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 59.070 ▼270K 60.470 ▼270K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 56.410 ▼260K 57.810 ▼260K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 52.860 ▼240K 54.260 ▼240K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 50.640 ▼230K 52.040 ▼230K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 35.650 ▼170K 37.050 ▼170K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 32.010 ▼150K 33.410 ▼150K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 28.020 ▼130K 29.420 ▼130K
Cập nhật: 01/11/2024 17:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,710 ▼50K 8,910 ▼50K
Trang sức 99.9 8,700 ▼50K 8,900 ▼50K
NL 99.99 8,760 ▼50K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,730 ▼50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,800 ▼50K 8,920 ▼50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,800 ▼50K 8,920 ▼50K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,800 ▼50K 8,920 ▼50K
Miếng SJC Thái Bình 8,750 ▼50K 8,950 ▼50K
Miếng SJC Nghệ An 8,750 ▼50K 8,950 ▼50K
Miếng SJC Hà Nội 8,750 ▼50K 8,950 ▼50K
Cập nhật: 01/11/2024 17:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,175.04 16,338.42 16,862.69
CAD 17,693.89 17,872.61 18,446.11
CHF 28,395.84 28,682.66 29,603.03
CNY 3,459.46 3,494.40 3,606.53
DKK - 3,616.27 3,754.78
EUR 26,771.11 27,041.53 28,239.20
GBP 31,800.55 32,121.77 33,152.49
HKD 3,168.93 3,200.93 3,303.65
INR - 300.09 312.09
JPY 159.91 161.53 169.21
KRW 15.87 17.63 19.13
KWD - 82,255.58 85,544.62
MYR - 5,716.20 5,840.91
NOK - 2,251.43 2,347.03
RUB - 247.98 274.52
SAR - 6,715.37 6,983.88
SEK - 2,317.22 2,415.61
SGD 18,614.60 18,802.62 19,405.96
THB 659.61 732.90 760.97
USD 25,084.00 25,114.00 25,454.00
Cập nhật: 01/11/2024 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,130.00 25,144.00 25,454.00
EUR 26,988.00 27,096.00 28,194.00
GBP 32,026.00 32,155.00 33,112.00
HKD 3,189.00 3,202.00 3,305.00
CHF 28,741.00 28,856.00 29,717.00
JPY 162.13 162.78 169.84
AUD 16,333.00 16,399.00 16,889.00
SGD 18,786.00 18,861.00 19,384.00
THB 728.00 731.00 762.00
CAD 17,839.00 17,911.00 18,420.00
NZD 14,878.00 15,367.00
KRW 17.59 19.34
Cập nhật: 01/11/2024 17:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25126 25126 25454
AUD 16248 16348 16918
CAD 17804 17904 18455
CHF 28736 28766 29559
CNY 0 3514.7 0
CZK 0 1040 0
DKK 0 3670 0
EUR 27010 27110 27982
GBP 32149 32199 33302
HKD 0 3280 0
JPY 162.52 163.02 169.53
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.095 0
MYR 0 6027 0
NOK 0 2312 0
NZD 0 14883 0
PHP 0 415 0
SEK 0 2398 0
SGD 18702 18832 19564
THB 0 690.8 0
TWD 0 790 0
XAU 8750000 8750000 8950000
XBJ 8200000 8200000 8700000
Cập nhật: 01/11/2024 17:45