Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Giá vàng hôm nay 1/8 ghi nhận tuần tăng giá, sẵn sàng chu kỳ bứt tốc mới

07:43 | 01/08/2021

Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Mặc dù giảm giá trong phiên giao dịch cuối tuần, nhưng tính chung trong tuần giao dịch, giá vàng hôm nay vẫn ghi tuần tăng giá mạnh của kim loại quý và được dự báo có thể lên mốc 1.850 USD/Ounce thời gian tới.

Giá vàng giao ngay trong tuần giao dịch từ ngày 26/7 chịu sự chi phối mạnh bởi diễn biến của đồng USD trong bối cảnh dịch Covid-19 diên biến phúc tạp do biến chủng Delta vẫn đang là nhân tố rủi ro lớn nhất đối với tăng trưởng kinh tế toàn cầu.

gia-vang-mo-cua-ngay-257-mat-130000-dongluong
Ảnh minh hoạ

Ghi nhận vào đầu giờ sáng 26/7, giá vàng giao ngay đứng ở mức 1.799,74 USD/Ounce, trong khi giá vàng thế giới giao tháng 9/2021 ghi nhận trên sàn Comex thuộc New York Mercantile Exchanghe ở mức 1.800,5 USD/Ounce.

Tại thị trường trong nước, giá vàng 9999 hiện được niêm yết tại TP Hồ Chí Minh đứng ở mức 56,80 – 57,45 triệu đồng/lượng (mua vào/bán ra). Trong khi đó, giá vàng miếng SJC được Tập đoàn DOJI niêm yết tại Hà Nội ở mức 56,80 – 57,55 triệu đồng/lượng. Còn tại Phú Quý SJC, giá vàng 9999 được niêm yết tại Hà Nội ở mức 57,00 – 57,70 triệu đồng/lượng. Cùng thời điểm, giá vàng SJC được Bảo Tín Minh Châu niêm yết ở mức 56,90 – 57,52 triệu đồng/lượng.

Tâm lý hưng phấn của giới đầu tư trước đà đi lên của thị trường chứng khoán, đặc biệt là chứng khoán Mỹ, cũng làm giảm sức hấp dẫn của kim loại quý. Nhu cầu nắm giữ vàng tại một số thị trường lớn như Ấn Độ giảm khi người dân bán mạnh vàng để trả nợ ngân hàng cũng là tác nhân tiêu cực đối với vàng.

Tuy nhiên, áp lực giảm giá đối với kim loại quý được đánh giá là không quá lớn khi các vấn đề rủi ro về lạm phát, dịch bệnh có chiều hướng gia tăng. Và khi đồng USD suy yếu, cộng với đó là tâm lý thận trọng của giới đầu tăng lên khi dịch Covid-19 bùng phát tại nhiều quốc gia, khu vực, đặc biệt là tại 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới, Mỹ và Trung Quốc, giá vàng đã quay đầu đi lên.

Đồng bạc xanh mất giá trong bối cảnh nền kinh tế Mỹ tiếp tục ghi nhận dữ liệu kinh tế không mấy lạc quan. Số đơn đặt hàng hoá lâu bền của nền kinh tế Mỹ chỉ tăng 0,8% trong tháng 6/2021, thấp hơn nhiều con số dự báo 2,1% được đưa ra trước đó. Doanh số bán nhà mới tại Mỹ trong tháng 6 cũng thấp hơn nhiều con số dự báo 725.000, chỉ đạt 676.000 căn.

Ở diễn biến khác, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) trong bản cập nhật Triển vọng Kinh tế Thế giới phát đi ngày 27/7 đã đưa ra loạt cảnh báo về lạm phát và tăng trưởng kinh tế toàn cầu.

Theo cảnh báo của IMF, nguy cơ lạm phát sẽ không chỉ xảy ra nhất thời nếu như các ngân hàng trung ương có hành động. “Lạm phát dự kiến ​​sẽ trở lại mức trước đại dịch ở hầu hết các quốc gia vào năm 2022”, IMF nhận định.

Cũng trong báo cáo trên, IMF đã hạ dự báo tăng trưởng năm 2021 của các nền kinh tế mới nổi châu Á, trong đó có Đông Nam Á, do diễn biến tiêu cực của dịch Covid-19.

Theo đó, IMF hạ dự báo tăng trưởng khu vực châu Á mới nổi xuống còn mức 7,5% trong năm 2021, giảm 1,1% so với dự báo đưa ra hồi tháng 4. Riêng nhóm 5 nước Đông Nam Á gồm Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan, IMF hạ dự báo tăng trưởng chung xuống còn 4,3%, giảm 0,6% so với dự báo được đưa ra hồi tháng 4, trước đó trong báo cáo hồi tháng 4, mức dự báo là 4,9%. Còn với Ấn Độ, mức tăng trưởng được dự báo là 9,5%, giảm 3 điểm phần trăm và của Trung Quốc là 8,1%, giảm 0,3 điểm phần trăm.

Và khi thông tin FED tiếp tục phát thông báo khẳng định sẽ duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng hiện nay với việc duy trì mặt bằng lãi suất gần như bằng 0 hiện nay, đồng USD mất giá mạnh, đặc biệt là nhận định nền kinh tế Mỹ đã không đạt được “tiến bộ đáng kể nào hơn”, giá vàng đã quay đầu tăng mạnh.

Ghi nhận vào đầu giờ sáng 30/7, giá vàng giao ngay đứng ở mức 1.831,39 USD/Ounce, trong khi giá vàng thế giới giao tháng 9/2021 ghi nhận trên sàn Comex thuộc New York Mercantile Exchanghe ở mức 1.831,8 USD/Ounce.

Nhưng đà tăng của kim loại quý đã bị chặn lại trong phiên giao dịch cuối tuần khi loạt dữ liệu kinh tế tích cực và dự báo lạc quan về tăng trưởng kinh tế toàn cầu được phát đi giúp cải thiện tâm lý của nhà đầu tư, thúc đẩy dòng tiền chảy mạnh vào các tài sản rủi ro và giúp đồng USD phục hồi, qua đó làm giảm vai trò tài sản đảm bảo của vàng khiến giá vàng giảm mạnh.

Chốt tuần giao dịch, giá vàng ngày 1/8 ghi nhận giá vàng giao ngay đứng ở mức 1.814,18 USD/Ounce, trong khi giá vàng thế giới giao tháng 9/2021 ghi nhận trên sàn Comex thuộc New York Mercantile Exchanghe ở mức 1.813,0 USD/Ounce.

Tại thị trường trong nước, khép tuần giao dịch, giá vàng hôm nay ghi nhận giá vàng 9999 hiện được niêm yết tại TP Hồ Chí Minh đứng ở mức 56,55 – 57,25 triệu đồng/lượng (mua vào/bán ra). Trong khi đó, giá vàng miếng SJC được Tập đoàn DOJI niêm yết tại Hà Nội ở mức 56,48 – 57,93 triệu đồng/lượng. Còn tại Phú Quý SJC, giá vàng 9999 được niêm yết tại Hà Nội ở mức 56,60 – 57,40 triệu đồng/lượng. Cùng thời điểm, giá vàng SJC được Bảo Tín Minh Châu niêm yết ở mức 56,90 – 57,52 triệu đồng/lượng.

Mặc dù giảm mạnh trong phiên giao dịch cuối tuần, nhưng tính chung trong tuần giao dịch, giá vàng khép tuần giao dịch từ ngày 26/7 vẫn ghi nhận tuần tăng giá mạnh.

Bước sang tuần giao dịch từ ngày 2/8, với diễn biến của dịch Covid-19 đang có chiều hướng gia tăng tại Mỹ và Trung Quốc, giá vàng được dự báo có có khả năng tăng mạnh lên mức 1.850 USD/Ounce.

Chủ tịch Jerome Powell trong phát biểu sau cuộc họp của FOMC đã khẳng định, dịch Covid-19 vẫn đang là rủi ro lớn nhất và sẽ có tác động tiêu cực, có chiều hướng gia tăng đối với tăng trưởng kinh tế Mỹ trong nửa cuối năm.

Bình luận về những tuyên bố của ông Powell, người đứng đầu chiến lược toàn cầu Bart Melek của TD Securities cho rằng, hiện vẫn không rõ mốc thời điểm nào FED sẽ thực hiện điều chỉnh lãi suất nhưng rủi ro dịch bệnh với biến thể Delta đã được khẳng định và nó sẽ là vấn đề lớn có thể khiến đồng USD sụt giảm.

Để vàng tiếp tục tăng giá, Bart Melek nhận định cần phải thêm một cú hích mới, như vấn đề việc làm.

Và nếu vàng có thể lấy lại đà tăng, mốc giá tiếp theo sẽ là 1.852 USD/Ounce, Bart Melek nhận định.

Một yếu tố khác được đánh giá là sẽ tạo tác động mạnh lên giá vàng tuần tới là báo cáo việc làm của Mỹ trong tháng 7 dự kiến được công bố vào ngày 6/8 tới. Giới phân tích dự báo, Mỹ sẽ có thêm 900.000 việc làm và tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống còn 5,7%

Việc ngân hàng Trung ương các nước tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng và triển khai các gói hỗ trợ, kích thích kinh tế cũng sẽ hỗ trợ giá vàng thời gian tới.

Theo kết quả khảo sát xu hướng giá vàng hàng tuần của Kitco, trong 14 nhà phân tích Phố Wall thì có tới 11 người cho rằng giá vàng tăng, chỉ có 3 người cho rằng giá vàng đi ngang và không có ý kiến nào nhận định giá vàng giảm.

Minh Ngọc

Hyundai và LG đầu tư hơn 1,1 tỷ USD xây dựng nhà máy pin EV tại IndonesiaHyundai và LG đầu tư hơn 1,1 tỷ USD xây dựng nhà máy pin EV tại Indonesia
Việt Nam sẽ có “Khu công nghiệp Dược phẩm” trị giá 500 triệu USDViệt Nam sẽ có “Khu công nghiệp Dược phẩm” trị giá 500 triệu USD
VN-Index VN-Index "bẻ cua" cực gắt: Nhà đầu tư chốt lời sớm tiếc đến… điếng người
Nghiên cứu áp dụng khung bồi thường cho 2 tuyến giao thông kết nối sân bay Long ThànhNghiên cứu áp dụng khung bồi thường cho 2 tuyến giao thông kết nối sân bay Long Thành
Kiên quyết loại bỏ những dự án kém hiệu quả, chưa thật sự cần thiếtKiên quyết loại bỏ những dự án kém hiệu quả, chưa thật sự cần thiết
Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư 75.000 tỷ đồng giảm nghèo bền vữngQuốc hội thông qua chủ trương đầu tư 75.000 tỷ đồng giảm nghèo bền vững

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 87,000 89,000
AVPL/SJC HCM 87,000 89,000
AVPL/SJC ĐN 87,000 89,000
Nguyên liệu 9999 - HN 87,800 88,200
Nguyên liệu 999 - HN 87,700 88,100
AVPL/SJC Cần Thơ 87,000 89,000
Cập nhật: 26/10/2024 16:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 87.600 88.900
TPHCM - SJC 87.000 89.000
Hà Nội - PNJ 87.600 88.900
Hà Nội - SJC 87.000 89.000
Đà Nẵng - PNJ 87.600 88.900
Đà Nẵng - SJC 87.000 89.000
Miền Tây - PNJ 87.600 88.900
Miền Tây - SJC 87.000 89.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 87.600 88.900
Giá vàng nữ trang - SJC 87.000 89.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 87.600
Giá vàng nữ trang - SJC 87.000 89.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 87.600
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 87.500 88.300
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 87.410 88.210
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 86.520 87.520
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 80.480 80.980
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 64.980 66.380
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 58.790 60.190
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 56.150 57.550
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 52.610 54.010
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 50.410 51.810
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 35.480 36.880
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 31.860 33.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 27.890 29.290
Cập nhật: 26/10/2024 16:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,700 ▲10K 8,890 ▲5K
Trang sức 99.9 8,690 ▲10K 8,880 ▲5K
NL 99.99 8,765 ▲10K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,720 ▲10K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,790 ▲10K 8,900 ▲5K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,790 ▲10K 8,900 ▲5K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,790 ▲10K 8,900 ▲5K
Miếng SJC Thái Bình 8,700 8,900
Miếng SJC Nghệ An 8,700 8,900
Miếng SJC Hà Nội 8,700 8,900
Cập nhật: 26/10/2024 16:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,377.03 16,542.46 17,073.19
CAD 17,855.01 18,035.36 18,613.99
CHF 28,538.34 28,826.60 29,751.44
CNY 3,471.82 3,506.89 3,619.40
DKK - 3,614.03 3,752.43
EUR 26,766.87 27,037.25 28,234.58
GBP 32,076.74 32,400.75 33,440.25
HKD 3,182.44 3,214.58 3,317.71
INR - 301.01 313.05
JPY 161.12 162.75 170.49
KRW 15.80 17.55 19.05
KWD - 82,623.78 85,927.11
MYR - 5,788.52 5,914.78
NOK - 2,272.06 2,368.53
RUB - 249.29 275.97
SAR - 6,736.09 7,005.40
SEK - 2,350.89 2,450.71
SGD 18,744.31 18,933.64 19,541.09
THB 663.65 737.39 765.63
USD 25,167.00 25,197.00 25,467.00
Cập nhật: 26/10/2024 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,215.00 25,227.00 25,467.00
EUR 26,937.00 27,045.00 28,132.00
GBP 32,302.00 32,432.00 33,379.00
HKD 3,203.00 3,216.00 3,317.00
CHF 28,757.00 28,872.00 29,719.00
JPY 163.10 163.76 170.80
AUD 16,526.00 16,592.00 17,078.00
SGD 18,904.00 18,980.00 19,499.00
THB 734.00 737.00 768.00
CAD 17,996.00 18,068.00 18,575.00
NZD 14,991.00 15,476.00
KRW 17.64 19.38
Cập nhật: 26/10/2024 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25273 25273 25467
AUD 16461 16561 17131
CAD 17963 18063 18614
CHF 28867 28897 29691
CNY 0 3524.8 0
CZK 0 1040 0
DKK 0 3670 0
EUR 27000 27100 27972
GBP 32420 32470 33572
HKD 0 3280 0
JPY 163.85 164.35 170.86
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.054 0
MYR 0 6027 0
NOK 0 2312 0
NZD 0 15026 0
PHP 0 415 0
SEK 0 2398 0
SGD 18820 18950 19682
THB 0 695.5 0
TWD 0 790 0
XAU 8700000 8700000 8900000
XBJ 8200000 8200000 8700000
Cập nhật: 26/10/2024 16:45