Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Giá bất động sản Việt Nam tăng bất chấp dịch, ở các nước khác thế nào?

09:02 | 10/09/2021

452 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Không chỉ ở Việt Nam, rất nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận mức tăng trưởng về giá ở thị trường bất động sản bất chấp đại dịch phức tạp.
Giá bất động sản Việt Nam tăng bất chấp dịch, ở các nước khác thế nào? - 1
Trung Quốc là quốc gia ghi nhận sự tăng trưởng rõ rệt về giá bất động sản nhà ở trong năm 2021 (Nguồn: Chinadaily).

Trong báo cáo mới công bố, Savills - đơn vị chuyên nghiên cứu thị trường bất động sản - cho biết bất động sản nhà ở toàn cầu những tháng đầu năm nay ghi nhận sự hồi phục khả quan với mức tăng trưởng giá trung bình đạt 3,9%.

Tại Hà Nội, trước những diễn biến của dịch Covid-19 hiện nay, các chuyên gia cho rằng tình hình hoạt động của thị trường sẽ chậm hơn so với cùng kỳ năm ngoái.

Tuy nhiên, giá bất động sản, đặc biệt là bất động sản đô thị từ nay tới cuối năm dự kiến sẽ không giảm mặc dù đang có áp lực gia tăng về dòng tiền và việc chi trả của các nhà đầu tư. Trước đó thị trường này cũng đã trải qua nhiều lần tăng liên tiếp bất chấp khó khăn của dịch bệnh.

Đáng chú ý không chỉ ở Việt Nam, rất nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận mức tăng trưởng về giá ở thị trường bất động sản.

Vừa qua, Savills cho biết đã tiến hành cuộc khảo sát tốc độ hồi phục của thị trường nhà ở tại 30 thành phố trên toàn cầu. Kết quả cho thấy trong khoảng thời gian từ giữa năm 2018 đến cuối năm 2020, thị trường nhà ở tại những thành phố này chỉ ghi nhận mức tăng trưởng giá nhẹ khoảng 0,7%, phần lớn là bởi các lý do về bất ổn xã hội, những thay đổi về chính sách và thuế quan tại nhiều quốc gia và sau đó là đại dịch Covid-19.

Tuy nhiên, trong nửa đầu năm nay, thị trường bất động sản cao cấp tại nhiều nước đã cho thấy sự phục hồi, bằng chứng là tăng trưởng giá trung bình đạt mức 3,9%, mức tăng trưởng nhanh nhất kể từ tháng 12/2016.

Những yếu tố tác động tích cực đối với thị trường có thể kể đến là lãi suất thấp, cải thiện trong niềm tin của người mua, sự gia tăng số lượng giao dịch có giá trị cao cũng như các biện pháp kích cầu kinh tế.

Với việc nhiều nước hiện nay đang dần mở cửa biên giới, thị trường có thể kỳ vọng vào nhu cầu lớn hơn. Tuy nhiên, bất ổn do diễn biến dịch Covid-19 có thể vẫn kéo dài, song, những tín hiệu hồi phục nền kinh tế sẽ tăng thêm sự tự tin từ phía nhà đầu tư, từ đó thúc đẩy nhu cầu bất động sản từ nay đến cuối năm.

Cụ thể theo báo cáo, trong 6 tháng đầu năm nay, hơn 70% các thành phố trong khảo sát ghi nhận tăng trưởng trong giá trị bất động sản nhà ở.

Còn những thành phố ghi nhận tăng trưởng âm là những thị trường trước đó chủ yếu phụ thuộc vào nhu cầu từ khách hàng quốc tế, một phân khúc gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận khi bị hạn chế đi lại và du lịch.

Tại Mỹ, Los Angeles và Miami dẫn đầu với mức tăng trưởng trên 9% trong nửa đầu năm 2021, nhờ lợi thế về diện tích lớn cũng như thời tiết thuận lợi. Thị trường Miami đã ghi nhận mức tăng khá lớn trong nhu cầu, khi hầu hết mọi người phải làm việc tại nhà.

Thêm vào đó, thị trường này cũng sở hữu chính sách thuế quan ưu đãi, sự gia tăng trong số lượng các công ty công nghệ và tài chính và lãi suất cho vay thấp, khiến lực mua gia tăng. New York cũng ghi nhận số lượng giao dịch tăng, dù giá bất động sản giảm liên tục trong vòng 4 năm trước.

Đối với thị trường châu Á, Trung Quốc là quốc gia ghi nhận sự tăng trưởng rõ rệt về giá bất động sản nhà ở trong năm 2021, mặc dù đã có những quy định tài chính được thắt chặt và nhiều thay đổi trong chính sách của địa phương để hạ nhiệt thị trường.

Trong đó, mức tăng tại Quảng Châu được ghi nhận là 7,9%, trong khi tại Thượng Hải lên tới 13,7%. Những giao dịch mua với mục đích cho thuê đã dẫn dắt mức tăng giá của thị trường trong năm qua. Hầu hết nhà đầu tư vẫn giữ niềm tin rằng bất động sản tại đây là kênh trú ẩn an toàn của dòng tiền.

Một vài thành phố như Singapore, Bangkok và Kuala Lumpur cũng ghi nhận tăng trưởng giá trong thời gian vừa qua, phần lớn là bởi nhu cầu gia tăng nhưng nguồn cung lại hạn chế.

Tại Hồng Kông, giá bất động sản nhà ở đã ghi nhận mức giảm từ năm 2019 đến nửa đầu năm 2020 bởi những bất ổn trong tình hình xã hội. Tuy nhiên, thị trường này bắt đầu có dấu hiệu hồi phục với mức tăng 1,9% trong 6 tháng đầu năm nay, nhờ lãi suất thấp và các hoạt động du lịch được cho phép hoạt động trở lại.

Còn tại châu Âu, giá trị bất động sản tại London ổn định trong năm 2020 và tăng 1,1% trong 6 tháng đầu năm nay.

Trong khi đó, thị trường nhà ở tại Paris ghi nhận mức giá giảm và số lượng giao dịch giảm khá lớn so với năm trước. Nguyên nhân chính nằm ở lệnh giãn cách xã hội kéo dài, từ đó tác động tiêu cực tới niềm tin của người mua tại thị trường này.

Không chỉ ghi nhận mức tăng trưởng về giá, số lượng giao dịch tại nhiều thành phố cũng ghi nhận mức tăng đáng kể, đặc biệt khi so sánh với cùng kỳ năm 2020, thời điểm lệnh giãn cách xã hội được áp dụng tại nhiều nơi.

Theo Dân trí

Bật mí chiến thuật đầu tư bất động sản mùa dịch 'bách chiến bách thắng'Bật mí chiến thuật đầu tư bất động sản mùa dịch 'bách chiến bách thắng'
Lãi suất thấp, nguồn tiền 'rẻ' đổ vào mua găm nhàLãi suất thấp, nguồn tiền 'rẻ' đổ vào mua găm nhà
Hồi sinh căn hộ cao cấp tầm giá từ 1 tỷ đồngHồi sinh căn hộ cao cấp tầm giá từ 1 tỷ đồng
230 triệu đồng/m2 nhà trong hẻm tại Quận 1, TPHCM230 triệu đồng/m2 nhà trong hẻm tại Quận 1, TPHCM
Góc khuất M&A bất động sản mùa dịchGóc khuất M&A bất động sản mùa dịch

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 84,600 ▼400K 86,600 ▼400K
AVPL/SJC HCM 84,600 ▼400K 86,600 ▼400K
AVPL/SJC ĐN 84,600 ▼400K 86,600 ▼400K
Nguyên liệu 9999 - HN 84,200 ▼1300K 85,000 ▼800K
Nguyên liệu 999 - HN 84,100 ▼1300K 84,900 ▼800K
AVPL/SJC Cần Thơ 84,600 ▼400K 86,600 ▼400K
Cập nhật: 25/11/2024 16:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 84.400 ▼1100K 85.800 ▼1000K
TPHCM - SJC 84.600 ▼400K 86.600 ▼400K
Hà Nội - PNJ 84.400 ▼1100K 85.800 ▼1000K
Hà Nội - SJC 84.600 ▼400K 86.600 ▼400K
Đà Nẵng - PNJ 84.400 ▼1100K 85.800 ▼1000K
Đà Nẵng - SJC 84.600 ▼400K 86.600 ▼400K
Miền Tây - PNJ 84.400 ▼1100K 85.800 ▼1000K
Miền Tây - SJC 84.600 ▼400K 86.600 ▼400K
Giá vàng nữ trang - PNJ 84.400 ▼1100K 85.800 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - SJC 84.600 ▼400K 86.600 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 84.400 ▼1100K
Giá vàng nữ trang - SJC 84.600 ▼400K 86.600 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 84.400 ▼1100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 84.300 ▼1100K 85.100 ▼1100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 84.220 ▼1090K 85.020 ▼1090K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 83.350 ▼1090K 84.350 ▼1090K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 77.550 ▼1010K 78.050 ▼1010K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 62.580 ▼820K 63.980 ▼820K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 56.620 ▼750K 58.020 ▼750K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 54.070 ▼710K 55.470 ▼710K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 50.660 ▼670K 52.060 ▼670K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 48.530 ▼650K 49.930 ▼650K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 34.150 ▼460K 35.550 ▼460K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 30.660 ▼420K 32.060 ▼420K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 26.830 ▼370K 28.230 ▼370K
Cập nhật: 25/11/2024 16:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,340 ▼130K 8,570 ▼100K
Trang sức 99.9 8,330 ▼130K 8,560 ▼100K
NL 99.99 8,360 ▼130K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,330 ▼130K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,430 ▼130K 8,580 ▼100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,430 ▼130K 8,580 ▼100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,430 ▼130K 8,580 ▼100K
Miếng SJC Thái Bình 8,460 ▼70K 8,660 ▼40K
Miếng SJC Nghệ An 8,460 ▼70K 8,660 ▼40K
Miếng SJC Hà Nội 8,460 ▼70K 8,660 ▼40K
Cập nhật: 25/11/2024 16:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,217.57 16,381.38 16,906.88
CAD 17,788.08 17,967.76 18,544.15
CHF 27,837.96 28,119.15 29,021.19
CNY 3,420.62 3,455.18 3,566.02
DKK - 3,508.82 3,643.18
EUR 25,970.41 26,232.74 27,394.35
GBP 31,206.12 31,521.33 32,532.51
HKD 3,184.56 3,216.72 3,319.91
INR - 300.55 312.56
JPY 159.21 160.82 168.47
KRW 15.67 17.41 18.89
KWD - 82,415.60 85,710.29
MYR - 5,643.43 5,766.50
NOK - 2,266.64 2,362.87
RUB - 231.92 256.74
SAR - 6,756.71 7,005.04
SEK - 2,272.81 2,369.30
SGD 18,462.56 18,649.05 19,247.29
THB 653.42 726.02 753.82
USD 25,167.00 25,197.00 25,506.00
Cập nhật: 25/11/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,210.00 25,226.00 25,506.00
EUR 26,083.00 26,188.00 27,287.00
GBP 31,381.00 31,507.00 32,469.00
HKD 3,198.00 3,211.00 3,315.00
CHF 27,968.00 28,080.00 28,933.00
JPY 160.90 161.55 168.57
AUD 16,309.00 16,374.00 16,871.00
SGD 18,574.00 18,649.00 19,169.00
THB 719.00 722.00 752.00
CAD 17,893.00 17,965.00 18,483.00
NZD 14,636.00 15,128.00
KRW 17.34 19.04
Cập nhật: 25/11/2024 16:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25220 25220 25506
AUD 16221 16321 16886
CAD 17878 17978 18532
CHF 28137 28167 28960
CNY 0 3473.5 0
CZK 0 997 0
DKK 0 3559 0
EUR 26198 26298 27170
GBP 31518 31568 32686
HKD 0 3266 0
JPY 161.7 162.2 168.73
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.8 0
LAK 0 1.11 0
MYR 0 5865 0
NOK 0 2284 0
NZD 0 14696 0
PHP 0 407 0
SEK 0 2300 0
SGD 18513 18643 19370
THB 0 680.6 0
TWD 0 777 0
XAU 8460000 8460000 8660000
XBJ 8000000 8000000 8660000
Cập nhật: 25/11/2024 16:00