Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Xuất nhập khẩu đảo chiều ngoạn mục

14:13 | 02/12/2021

Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Sau khi dịch Covid-19 dần được kiểm soát, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng mạnh trong nửa cuối tháng 10 và đầu tháng 11-2021, giúp cán cân thương mại đảo chiều ngoạn mục từ thâm hụt sang xuất siêu.
Xuất nhập khẩu đảo chiều ngoạn mục
Dệt may là lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh tốt thông qua số liệu xuất khẩu

Theo Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước trong tháng 10-2021 đạt 55 tỉ USD, tăng 2,4% so với tháng 9. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 28,87 tỉ USD, tăng 6,8% so với tháng 9 (tương ứng tăng 1,85 tỉ USD); nhập khẩu đạt 26,13 tỉ USD, giảm 2,0% (tương ứng giảm 533 triệu USD). Tính chung 10 tháng năm 2021, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước đạt 539,42 tỉ USD, tăng 22,6% với cùng kỳ năm 2020, tương ứng tăng 99,54 tỉ USD.

Theo số liệu mới nhất được Tổng cục Hải quan công bố, trong nửa tháng 11, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt 29,59 tỉ USD, tăng 3% (tương ứng tăng 867 triệu USD) so với nửa cuối tháng 10-2021, đưa tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước từ đầu năm đến hết ngày 15-11 đạt 569,03 tỉ USD, tăng 22,7% (tương ứng tăng 105,32 tỉ USD) so với cùng kỳ năm 2020. Từ đầu năm đến hết ngày 15-11, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 284,45 tỉ USD, tăng 17,7% (tương ứng tăng 42,85 tỉ USD) so với cùng kỳ năm 2020.

Đáng chú ý, chỉ riêng trong tháng 10-2021, cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam đã thặng dư tới 2,74 tỉ USD. Vì vậy, cán cân thương mại của Việt Nam sau 10 tháng năm 2021 đã đảo chiều ngoạn mục, xuất siêu 125 triệu USD, thay vì thâm hụt 1,45 tỉ USD như ước tính trước đó.

Xuất nhập khẩu đảo chiều ngoạn mục
Ngành hàng truyền thống có thế mạnh xuất khẩu là điện thoại, điện tử, linh kiện...

Tổng cục Hải quan nhận định, đây là một tín hiệu tích cực của nền kinh tế, cho thấy, xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng tốt, khi nhu cầu thị trường toàn cầu đang dần hồi phục.

Về thị trường xuất nhập khẩu, trong 10 tháng năm 2021, trao đổi thương mại hàng hóa của Việt Nam với châu Á đạt 349,12 tỉ USD, tăng 23,6% so với cùng kỳ năm 2020, tiếp tục chiếm tỉ trọng cao nhất (64,7%) trong tổng trị giá xuất nhập khẩu của cả nước. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với các châu lục khác lần lượt là: Châu Mỹ 112,32 tỉ USD, tăng 23,1%; châu Âu 59,45 tỉ USD, tăng 12,9%; châu Đại Dương 11,52 tỉ USD, tăng 44%; châu Phi 7,02 tỉ USD, tăng 24,2% so với cùng kỳ năm 2020.

Ông Trần Thanh Hải, Phó cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương cho biết, còn khoảng hơn một tháng nữa để hoàn thành mục tiêu cả năm 2021, song dịch Covid-19 vẫn diễn biến khá phức tạp, ảnh hưởng đến mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp.

Khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp hiện nay là lao động. Đặc biệt, tại khu vực phía Nam, việc kêu gọi lao động trở lại làm việc gặp nhiều khó khăn và doanh nghiệp chưa thể phục hồi 100% công suất do tình trạng thiếu lao động. Bên cạnh đó, do tác động của dịch Covid-19 nên giá nguyên liệu trên thị trường thế giới và giá dịch vụ logistics đều đang tăng, gây áp lực về chi phí cho doanh nghiệp.

Tuy nhiên, theo ông Trần Thanh Hải, doanh nghiệp cũng có cơ hội để phục hồi sản xuất khi Nghị quyết 128/NQ-CP được thực hiện hiệu quả, khi các biện pháp phòng, chống dịch của địa phương có thể vừa bảo đảm an toàn về sức khỏe và tính mạng cho người dân, vừa không gây tác động quá lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Ông Trần Thanh Hải nhận định, cả năm 2021, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam sẽ đạt khoảng 640-645 tỉ USD và duy trì mức xuất siêu nhẹ. Đây là thành tựu lớn, bởi năm 2021, Việt Nam chịu tác động nặng nề của đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, vượt qua những khó khăn đó, các doanh nghiệp vẫn duy trì và phục hồi nhanh chóng sản xuất kinh doanh sau dịch. Đặc biệt, các ngành có thế mạnh như dệt may, da giày, dù chịu tác động lớn của dịch bệnh nhưng vẫn đạt mục tiêu sớm hơn dự kiến. Từ nay đến cuối năm, doanh nghiệp trong các ngành dệt may, da giày có thể lấy lại được tốc độ tăng trưởng như trước khi có dịch. Những ngành hàng truyền thống, có thế mạnh xuất khẩu như điện thoại, điện tử, máy móc, linh kiện... cũng có thể đạt mức tăng trưởng xuất khẩu khoảng 15-25% trong năm nay.

Đặc biệt, đại diện Cục Xuất nhập khẩu nhận định: Các hiệp định thương mại tự do (FTA) là cơ hội để thúc đẩy xuất nhập khẩu trong thời gian tới. Qua 3 năm thực hiện Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và hơn 1 năm thực hiện Hiệp định Thương mại tư do Việt Nam - EU (EVFTA), tác động từ những FTA này đối với hoạt động xuất khẩu hàng hóa rất rõ, đặc biệt với các thị trường mà Việt Nam chưa từng ký FTA. Cụ thể, nhờ CPTPP, xuất khẩu hàng hóa sang Canada, Mexico, Peru đều tăng 25-30%/năm. Với thị trường EU, EVFTA đang mở rộng những cơ chế ưu đãi mang tính chất bền vững. Tỷ lệ hàng hóa tận dụng ưu đãi từ EVFTA thông qua việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) mẫu EUR1 lên đến 20%, rất đáng kể. Bên cạnh đó, nhiều mặt hàng xuất khẩu sang EU hiện nay có thuế suất rất thấp nhờ đang được hưởng GSP nên một số trường hợp, doanh nghiệp không cần xin mẫu C/O EUR1.

Các chuyên gia kinh tế nhận định, kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi, nhưng phục hồi mạnh mẽ đến đâu còn phụ thuộc vào sự phục hồi của kinh tế thế giới, khả năng ứng phó với dịch bệnh và các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với doanh nghiệp. Do đó, cần sớm đẩy mạnh triển khai những gói hỗ trợ của Chính phủ đến với người dân và doanh nghiệp.

Chỉ riêng trong tháng 10-2021, cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam đã thặng dư tới 2,74 tỉ USD. Vì vậy, cán cân thương mại của Việt Nam sau 10 tháng năm 2021 đã đảo chiều ngoạn mục, xuất siêu 125 triệu USD, thay vì thâm hụt 1,45 tỉ USD như ước tính trước đó.

Thu Hằng

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 88,000 ▲1000K 90,000 ▲1000K
AVPL/SJC HCM 89,000 ▲2000K 90,000 ▲1000K
AVPL/SJC ĐN 87,000 89,000
Nguyên liệu 9999 - HN 88,500 ▲600K 88,900 ▲600K
Nguyên liệu 999 - HN 88,500 ▲700K 88,800 ▲600K
AVPL/SJC Cần Thơ 88,000 ▲1000K 90,000 ▲1000K
Cập nhật: 30/10/2024 15:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 88.300 ▲500K 89.000 ▲100K
TPHCM - SJC 87.000 89.000
Hà Nội - PNJ 88.300 ▲500K 89.000 ▲100K
Hà Nội - SJC 87.000 89.000
Đà Nẵng - PNJ 88.300 ▲500K 89.000 ▲100K
Đà Nẵng - SJC 87.000 89.000
Miền Tây - PNJ 88.300 ▲500K 89.000 ▲100K
Miền Tây - SJC 87.000 89.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 88.300 ▲500K 89.000 ▲100K
Giá vàng nữ trang - SJC 87.000 89.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 88.300 ▲500K
Giá vàng nữ trang - SJC 87.000 89.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 88.300 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 88.200 ▲500K 89.000 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 88.110 ▲500K 88.910 ▲500K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 87.210 ▲490K 88.210 ▲490K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 81.120 ▲450K 81.620 ▲450K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 65.500 ▲370K 66.900 ▲370K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 59.270 ▲340K 60.670 ▲340K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 56.600 ▲320K 58.000 ▲320K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 53.040 ▲300K 54.440 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 50.820 ▲300K 52.220 ▲300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 35.770 ▲200K 37.170 ▲200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 32.130 ▲190K 33.530 ▲190K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 28.120 ▲160K 29.520 ▲160K
Cập nhật: 30/10/2024 15:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,730 ▲40K 8,930 ▲40K
Trang sức 99.9 8,720 ▲40K 8,920 ▲40K
NL 99.99 8,780 ▲40K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,750 ▲40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,820 ▲40K 8,940 ▲40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,820 ▲40K 8,940 ▲40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,820 ▲40K 8,940 ▲40K
Miếng SJC Thái Bình 8,700 8,900
Miếng SJC Nghệ An 8,700 8,900
Miếng SJC Hà Nội 8,700 8,900
Cập nhật: 30/10/2024 15:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,158.24 16,321.46 16,845.16
CAD 17,729.53 17,908.62 18,483.24
CHF 28,464.22 28,751.74 29,674.29
CNY 3,459.33 3,494.27 3,606.39
DKK - 3,603.65 3,741.67
EUR 26,688.72 26,958.31 28,152.25
GBP 32,067.41 32,391.32 33,430.65
HKD 3,174.45 3,206.52 3,309.41
INR - 300.18 312.19
JPY 159.33 160.94 168.59
KRW 15.86 17.62 19.12
KWD - 82,320.68 85,612.21
MYR - 5,706.38 5,830.87
NOK - 2,264.08 2,360.21
RUB - 247.92 274.45
SAR - 6,720.68 6,989.40
SEK - 2,330.93 2,429.91
SGD 18,629.33 18,817.50 19,421.29
THB 662.08 735.65 763.82
USD 25,128.00 25,158.00 25,458.00
Cập nhật: 30/10/2024 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,140.00 25,155.00 25,455.00
EUR 26,862.00 26,970.00 28,055.00
GBP 32,329.00 32,459.00 33,406.00
HKD 3,193.00 3,206.00 3,308.00
CHF 28,642.00 28,757.00 29,601.00
JPY 161.34 161.99 168.93
AUD 16,311.00 16,377.00 16,860.00
SGD 18,790.00 18,865.00 19,380.00
THB 733.00 736.00 767.00
CAD 17,867.00 17,939.00 18,442.00
NZD 14,873.00 15,356.00
KRW 17.55 19.27
Cập nhật: 30/10/2024 15:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25150 25150 25458
AUD 16271 16371 16946
CAD 17863 17963 18514
CHF 28813 28843 29636
CNY 0 3517.9 0
CZK 0 1040 0
DKK 0 3670 0
EUR 26968 27068 27941
GBP 32459 32509 33626
HKD 0 3280 0
JPY 162.24 162.74 169.25
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.072 0
MYR 0 6027 0
NOK 0 2312 0
NZD 0 14933 0
PHP 0 415 0
SEK 0 2398 0
SGD 18751 18881 19613
THB 0 696.6 0
TWD 0 790 0
XAU 8700000 8700000 8900000
XBJ 8200000 8200000 8700000
Cập nhật: 30/10/2024 15:00