Việt Nam thâm hụt ngân sách cao nhất khu vực
Thu ngân sách Nhà nước 2 tháng đầu năm tăng 18,2% |
Thu ngân sách Nhà nước từ dầu thô trong tháng 1/2019 ước đạt 4,5 ngàn tỷ đồng |
Tháng 1/2019, nộp ngân sách Nhà nước toàn PVN ước đạt 8,2 ngàn tỷ đồng |
Nguyên nhân được các chuyên gia đưa ra là trong vòng 10 năm trở lại đây, quy mô chi tiêu công của Việt Nam luôn ở mức cao trong khi nguồn thu ngân sách không đủ để bù đắp.
Theo PGS.TS Ngô Trung Thành, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2018, kinh tế Việt Nam tăng trưởng 7,08%, cao nhất trong vòng hơn một thập niên vừa qua, đồng thời chất lượng tăng trưởng có cải thiện. Tuy nhiên, cải thiện môi trường kinh doanh có dấu hiệu chững lại, khu vực kinh tế tư nhân tiếp tục gặp nhiều khó khăn.
“Lạm phát và tỷ giá mặc dù nằm trong phạm vi điều chỉnh dự kiến, nhưng đã đương đầu với nhiều sức ép. Dư địa chính sách tiền tệ bị thu hẹp, đặc biệt là rủi ro tài khóa ngày càng tăng”, ông Thành cho biết.
Chính vì chi tiêu công cao như vậy nên PGS.TS Ngô Trung Thành cho rằng: Việt Nam không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục vay nợ để bù đắp bội chi và hệ quả là nợ công gia tăng. Điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng dài hạn, ổn định kinh tế vĩ mô, và khả năng chống chọi với các cú sốc của nền kinh tế. Chưa kể đến Chính phủ cũng không có nhiều không gian tài khóa cho việc thực hiện các biện pháp kích cầu cần thiết khi nền kinh tế gặp khó khăn.
Để phản ứng lại với những bất ổn vĩ mô do hậu quả của thâm hụt tài khóa kéo dài, Việt Nam đã áp dụng các biện pháp mang nặng tính hành chính như kiểm soát giá trong nước, áp trần lãi suất và tín dụng, kiểm soát tỷ giá, cắt giảm đầu tư công…
PGS.TS Thành cũng cho rằng những biện pháp ít tính thị trường này không những chỉ tác động ngắn hạn mà còn tăng rủi ro về sự thiếu hụt tổng cung do chúng bóp méo thị trường, các yếu tố sản xuất trong nước, nguồn lực được phân bổ không hợp lý. Từ đó làm giảm tăng trưởng kinh tế dài hạn. “Điều này làm cho việc kiềm chế thâm hụt ngân sách càng khó khăn hơn, và việc tăng hoặc áp thuế/phí mới là một trong những biện pháp mà cuối cùng Chính phủ có thể sử dụng”, PGS.TS Thành nhận định.
Và các biện pháp này sẽ làm giảm động cơ sản xuất, giảm tiết kiệm và đầu tư của khu vực tư nhân, đẩy nền kinh tế vào giai đoạn khó khăn hơn.
Nợ công của Việt Nam cao |
Ông Thành khẳng định: “Thâm hụt ngân sách và nợ công cao như hiện nay là một trong những rủi ro vĩ mô lớn nhất của nền kinh tế, đồng thời làm hạn chế các lựa chọn của Chính phủ trong việc đưa nền kinh tế thoát khỏi vũng trũng suy giảm và tiến vào quỹ đạo tăng trưởng mới”.
Ở khu vực tài chính ngân sách, các chuyên gia kinh tế đã phân tích, Việt Nam vẫn ở trong tình trạng có mức mất cân bằng ngân sách cao so với các nước trong khu vực. Thâm hụt ngân sách cao qua các năm đã khiến nợ công gia tăng và so với nhiều nước đang phát triển thì Việt Nam thuộc nhóm có tỷ lệ nợ công cao.
Tỷ lệ nợ công trên GDP ước đạt 61,4% GDP năm 2018. Mặc dù tỷ lệ này vẫn nằm trong mức trần nợ công 65% Quốc hội cho phép, nhưng quy mô nợ gia tăng đang khiến mức chi trả nợ lãi vay ngày càng cao, theo đó tỷ lệ ngân sách còn lại để đầu tư cho phát triển suy giảm.
Theo ông Thành, dù nợ công vẫn nằm trong ngưỡng cho phép, nhưng các khoản nợ công của Việt Nam vẫn chưa tính đủ các gánh nặng nợ tiềm tàng từ hoạt động của khu vực ngoài ngân sách như hoạt động của BHXH, BHYT, khu vực ngân hàng và đặc biệt là khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Ngoài ra, dư địa ngân sách đang ngày càng trở nên mỏng hơn, khiến cho nợ công có thể trở nên mất bền vững ngay cả khi có những cú sốc nhẹ…
GS.TS Trần Thọ Đạt, Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết, trong năm 2019, Việt Nam có thể tận dụng được một số tác động tích cực từ diễn biến kinh tế thế giới; dòng đầu tư quốc tế có thể có sự dịch chuyển từ điểm đến là Trung Quốc sang các quốc gia khác, tăng cơ hội cho Việt Nam thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực sản xuất hàng hóa Trung Quốc đang chịu sự trừng phạt của Mỹ... Tuy vậy, kinh tế Việt Nam năm 2019 cũng sẽ đối diện với nhiều thách thức.
“Đó là những tác động bất lợi từ kinh tế thế giới; rào cản thể chế kinh tế và môi trường kinh doanh. Khó khăn nữa là dư địa tác động của các chính sách tiếp tục bị thu hẹp khi lạm phát năm 2019 có thể sẽ cao hơn 2018. Bên cạnh đó, mặc dù lạm phát cơ bản ổn định và thấp do tốc độ tăng trưởng tín dụng 2019 theo kế hoạch chỉ tương đương 2018, nhưng các mặt hàng do Nhà nước quản lý sẽ được điều chỉnh (ví dụ giá dịch vụ y tế, giáo dục…). Ngoài ra là tác động đáng kể của việc tăng giá xăng dầu do tăng thuế môi trường xăng dầu lên mức kịch trần (được áp dụng từ 1/1/2019)", GS. Đạt chỉ rõ.
Theo TS. Ngô Trung Thành, để cải thiện tình trạng này, Chính phủ cần tăng cường chính sách trọng cung, phát triển kinh tế tư nhân. “Khu vực kinh tế tư nhân không chỉ được coi là một động lực quan trọng, mà cần khẳng định là động lực cơ bản, là trụ cột chính nhằm tạo ra được những bứt phá trong phát triển kinh tế phù hợp với xu thế của nền kinh tế thị trường hiện đại trong bối cảnh đẩy nhanh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng”, TS Thành nói.
Bên cạnh đó, cần thay đổi chính sách ưu đãi cho khu vực FDI. Cụ thể là giảm dần việc áp dụng hình thức ưu đãi về thời gian miễn thuế, giảm thuế một cách tràn lan, “xé rào” ở các địa phương; rà soát lại toàn bộ các quy định pháp lý về ưu đãi thuế đối với các dòng vốn FDI kém chất lượng.
Ngoài ra, cần tăng cường khả năng chống đỡ tốt hơn những cú sốc từ bên ngoài. Đồng thời, cần cải cách hệ thống thuế nhằm giảm bớt gánh nặng thuế khóa, tạo nguồn thu ngân sách ổn định và cân bằng.
Đặc biệt, theo ông Thành cần cơ cấu lại chi ngân sách theo hướng ổn định và gia tăng hiệu quả đầu tư phát triển, chỉ bố trí vốn từ ngân sách nhà nước cho những công trình thật sự cần thiết, có hiệu quả cao, đồng thời kiểm soát chặt chẽ đầu tư công nhằm chống dàn trải, lãng phí, thất thoát, tham nhũng…
Nguyễn Anh
-
Giải pháp trọng tâm thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô tháng 7 và quý III/2024
-
Giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm
-
6 giải pháp kiểm soát lạm phát những tháng cuối năm 2024
-
Nửa đầu năm, diễn biến giá cả theo đúng kịch bản đề ra
-
Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm