Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Tỷ phú Thái “gặp khó” sau khi thâu tóm “ông lớn” bia Việt

17:38 | 28/01/2019

Theo dõi PetroTimes trên
|
Sau khi thâu tóm Sabeco, tỷ phú Thái lập tức gặp khó trong bối cảnh giá nguyên liệu và thuế tiêu thụ đặc biệt gia tăng. Lợi nhuận “ông lớn” bia Việt đã xuống đáy 12 quý trong 3 tháng cuối năm 2018, cổ phiếu liên tục mất giá trong gần 1 tháng nay.

Trong bối cảnh thị trường giao dịch giằng co, cổ phiếu SAB của Tổng công ty Bia Rượu Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) không hề có phiên tăng giá nào kể từ ngày 8/1 cho tới nay. Sáng nay (28/1), mã này tiếp tục mất 800 đồng tương ứng 0,3% còn 232.200 đồng/cổ phiếu.

Cổ phiếu SAB diễn biến khá bất lợi trong bối cảnh doanh nghiệp này vừa công bố kết quả kinh doanh quý IV và cả năm 2018 không mấy khả quan.

Tỷ phú Thái “gặp khó” sau khi thâu tóm “ông lớn” bia Việt
Người Thái cơ bản đã thâu tóm xong Sabeco, tuy nhiên, việc kinh doanh của "ông lớn" ngành bia trong năm vừa qua không thật sự thuận lợi

Trong quý cuối cùng của năm 2018, Sabeco đạt 10.406 tỷ đồng doanh thu thuần, giảm nhẹ 1% so với cùng kỳ. Trong khi đó, giá vốn trong kỳ lại tăng 2% lên mức 8.222 tỷ đồng do sự gia tăng của chi phí nguyên liệu và thuế tiêu thụ đặc biệt. Lợi nhuận gộp trong quý IV của Sabeco theo đó giảm 11% xuống mức 2.184 tỷ đồng.

Phần lãi từ liên doanh liên kết cũng giảm mạnh 37% xuống chỉ còn 87 tỷ đồng. Tiết giảm được chi phí quản lý 10% so cùng kỳ còn 350 tỷ đồng, song chi phí bán hàng của Sabeco trong kỳ vừa rồi lại tăng 7% lên mức 934 tỷ đồng. Lợi nhuận khác lao dốc 65% chỉ còn đạt 9 tỷ đồng trong quý IV.

Chính vì vậy, lãi ròng Sabeco đã giảm mạnh 26% so với cùng kỳ, chỉ còn đạt 863 tỷ đồng trong quý IV/2018, thấp nhất trong vòng 12 quý trở lại đây của “ông lớn” ngành bia.

Tuy vậy, tính chung trong cả năm 2018, doanh thu thuần của Sabeco vẫn tăng 5% so với 2017, đạt 35.948 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế giảm 11%, xuống 4.175 tỷ đồng và thấp nhất trong vòng 3 năm kể từ khi doanh nghiệp này niêm yết.

Trong phiên giao dịch sáng nay, hai chỉ số chính diễn biến trái chiều. Trong khi VN-Index tăng nhẹ 2,12 điểm tương ứng 0,23% lên 911 điểm thì HNX-Index lại đánh mất 0,32 điểm tương ứng 0,31% còn 102,42 điểm.

Toàn thị trường ghi nhận 240 mã giảm giá, 34 mã giảm sàn so với 232 mã tăng, 24 mã tăng trần cho thấy sự giằng co vẫn tiếp diễn trong bối cảnh thanh khoản thu hẹp.

Có tổng cộng 64,86 triệu cổ phiếu được giao dịch trên HSX tương ứng 976,65 tỷ đồng và 14,48 triệu cổ phiếu giao dịch trên HNX tương ứng 180,78 tỷ đồng. Toàn thị trường có 966 mã cổ phiếu không hề diễn ra giao dịch nào.

Sáng nay, VHM hồi phục mạnh, tăng 1.100 đồng tương ứng 1,4% lên 79.100 đồng và trở thành mã có đóng góp tích cực nhất đối với VN-Index. Mã này góp vào mức tăng chung cảu chỉ số tới 1,12 điểm.

Bên cạnh đó, VIC, MSN, POW, GAS, CTG, VNM… tăng giá của tác động tích cực đến diễn biến chỉ số chung. Ngược lại, TCB, SAB, ROS, VCB, HNG, VCI… giảm đã kìm hãm chỉ số bứt phá trong phiên.

Trên sàn HNX, chỉ số nhận được sự hỗ trợ từ PVS, NTP, VCG, DPC… nhưng lại chị tác động tiêu cực do giá của các mã ACB, DBC, DGC, NVB giảm.

Đưa ra chiến lược đầu tư trên thị trường cơ sở trong tuần mới, Công ty chứng khoán Vietcombank (VCBS) cho rằng, trong bối cảnh thị trường vẫn đang ở vùng trống thông tin và kỳ nghỉ Tết Âm lịch đang đến gần, trước mắt ít có khả năng xuất hiện xu hướng mới và chỉ số sẽ vẫn tiếp tục giao dịch tích lũy đi ngang trong những phiên tới.

Do đó, giai đoạn hiện tại sẽ thích hợp hơn để những nhà đầu tư trung – dài hạn tích lũy dần các cổ phiếu có triển vọng kinh doanh tích cực trong năm 2019.

Nhà đầu tư ngắn hạn được khuyến nghị vẫn có thể tìm kiếm lợi nhuận bằng việc giao dịch “lướt sóng” trong biên độ hẹp, nhưng cần tuyệt đối tuân thủ kỷ luật đầu tư và tránh lạm dụng đòn bẩy.

Theo Dân trí

Nữ đại gia và chiếc Phantom “thất trùng” đen đủi; bi kịch cuối năm của “bông hồng vàng”
Trên vai “gánh nặng nghìn cân”, bầu Đức kêu gọi đưa Việt Nam vào World Cup
Một năm biến động "đốt" hơn 1.000 tỷ đồng của vợ chồng bầu Kiên
“Gà cưng” Quang Hải lập kỳ tích, bầu Hiển liên tiếp nhận tin mừng
PV Power được chấp thuận gia hạn công bố báo cáo tài chính năm 2019

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 87,000 89,000
AVPL/SJC HCM 87,000 89,000
AVPL/SJC ĐN 87,000 89,000
Nguyên liệu 9999 - HN 87,200 ▼200K 87,600 ▼200K
Nguyên liệu 999 - HN 87,100 ▼200K 87,500 ▼100K
AVPL/SJC Cần Thơ 87,000 89,000
Cập nhật: 06/11/2024 21:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 87.000 ▼400K 88.200 ▼300K
TPHCM - SJC 87.000 89.000
Hà Nội - PNJ 87.000 ▼400K 88.200 ▼300K
Hà Nội - SJC 87.000 89.000
Đà Nẵng - PNJ 87.000 ▼400K 88.200 ▼300K
Đà Nẵng - SJC 87.000 89.000
Miền Tây - PNJ 87.000 ▼400K 88.200 ▼300K
Miền Tây - SJC 87.000 89.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 87.000 ▼400K 88.200 ▼300K
Giá vàng nữ trang - SJC 87.000 89.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 87.000 ▼400K
Giá vàng nữ trang - SJC 87.000 89.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 87.000 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 86.900 ▼400K 87.700 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 86.810 ▼400K 87.610 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 85.920 ▼400K 86.920 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 79.930 ▼370K 80.430 ▼370K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 64.530 ▼300K 65.930 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 58.390 ▼270K 59.790 ▼270K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 55.760 ▼260K 57.160 ▼260K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 52.250 ▼240K 53.650 ▼240K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 50.060 ▼230K 51.460 ▼230K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 35.230 ▼170K 36.630 ▼170K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 31.640 ▼150K 33.040 ▼150K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 27.690 ▼130K 29.090 ▼130K
Cập nhật: 06/11/2024 21:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,610 ▼40K 8,810 ▼30K
Trang sức 99.9 8,600 ▼40K 8,800 ▼30K
NL 99.99 8,640 ▼40K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,630 ▼40K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,700 ▼40K 8,820 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,700 ▼40K 8,820 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,700 ▼40K 8,820 ▼30K
Miếng SJC Thái Bình 8,700 8,900
Miếng SJC Nghệ An 8,700 8,900
Miếng SJC Hà Nội 8,700 8,900
Cập nhật: 06/11/2024 21:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,157.40 16,320.61 16,844.20
CAD 17,761.36 17,940.77 18,516.33
CHF 28,338.44 28,624.68 29,543.01
CNY 3,452.65 3,487.52 3,599.41
DKK - 3,582.26 3,719.44
EUR 26,515.86 26,783.69 27,969.77
GBP 31,790.33 32,111.44 33,141.63
HKD 3,182.24 3,214.39 3,317.51
INR - 300.72 312.75
JPY 158.99 160.60 168.24
KRW 15.71 17.46 18.94
KWD - 82,473.49 85,770.70
MYR - 5,702.34 5,826.71
NOK - 2,232.96 2,327.77
RUB - 247.31 273.77
SAR - 6,740.69 7,010.17
SEK - 2,286.75 2,383.84
SGD 18,567.66 18,755.21 19,356.91
THB 657.75 730.83 758.82
USD 25,140.00 25,170.00 25,470.00
Cập nhật: 06/11/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,190.00 25,200.00 25,470.00
EUR 26,761.00 26,868.00 27,975.00
GBP 32,098.00 32,227.00 33,198.00
HKD 3,196.00 3,209.00 3,313.00
CHF 28,520.00 28,635.00 29,494.00
JPY 160.74 161.39 168.41
AUD 16,289.00 16,354.00 16,850.00
SGD 18,723.00 18,798.00 19,325.00
THB 727.00 730.00 162.00
CAD 17,887.00 17,959.00 18,477.00
NZD 14,808.00 15,302.00
KRW 17.39 19.10
Cập nhật: 06/11/2024 21:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25290 25290 25470
AUD 16355 16455 17018
CAD 17912 18012 18563
CHF 28619 28649 29442
CNY 0 3510.1 0
CZK 0 1040 0
DKK 0 3670 0
EUR 26856 26956 27829
GBP 32258 32308 33411
HKD 0 3280 0
JPY 161.93 162.43 168.94
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.105 0
MYR 0 6027 0
NOK 0 2312 0
NZD 0 14944 0
PHP 0 415 0
SEK 0 2398 0
SGD 18706 18836 19558
THB 0 687.5 0
TWD 0 790 0
XAU 8700000 8700000 8900000
XBJ 8200000 8200000 8700000
Cập nhật: 06/11/2024 21:00