Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

TP HCM ra "giải pháp kép" cho doanh nghiệp và ngân hàng

11:39 | 12/05/2013

546 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Mặc dù TP HCM đã tích cực áp dụng nhiều biện pháp kết nối giữa doanh nghiệp và ngân hàng, nhằm tăng cường khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp nhưng dư nợ tín dụng của các ngân hàng vẫn tăng trưởng chậm và các ngân hàng tiếp tục trong tình trạng “thừa tiền” mà không thể cho vay. UBND TP HCM đang tích cực triển khai nhiều giải pháp để hỗ trợ giải quyết khó khăn cho cả doanh nghiệp lẫn ngân hàng.

Ngân hàng “thừa tiền”

Ông Tô Duy Lâm - Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh TP HCM cho biết: Tuy lãi suất huy động đã giảm 1,5-2% so với thời điểm cuối năm 2012 và hiện ở mức 7,5%/năm đối với kỳ hạn 3-9 tháng, mức cao nhất là 11%/năm đối với kỳ hạn 12 tháng nhưng vốn huy động của các ngân hàng vẫn tiếp tục gia tăng. Ước tính đến cuối tháng 4-2013, tổng huy động vốn của các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn TP HCM đạt khoảng 1.033.400 tỉ đồng, tăng 4,06% so với cuối năm 2012, tăng 15% so với cùng kỳ. Điều này cho thấy, vốn huy động tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao.

Ngược lại, dư nợ tín dụng tăng trưởng thấp. Mặc dù, tín dụng đã thoát khỏi tình trạng tăng trưởng âm của 2 tháng đầu năm và có dấu hiệu tăng trưởng trở lại nhưng vẫn ở mức thấp hơn nhiều so với tăng trưởng huy động dẫn đến tình trạng ngân hàng “thừa tiền”. Tổng dư nợ tín dụng của các TCTD trên địa bàn TP HCM ước tính đến cuối tháng 4/2013 là 868.700 tỉ đồng, tăng 1,55% so với cuối năm 2012, trong đó dư nợ ở 5 lĩnh vực ưu tiên là 102.117 tỉ đồng, chỉ chiếm khoảng hơn 10% tổng dư nợ.

Dư nợ tín dụng tăng trưởng thấp dẫn đến tình trạng ngân hàng "thừa tiền"

Theo đánh giá của các chuyên gia, tiền của các ngân hàng đang thừa nhưng không thể lưu thông do nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh rất yếu. Trong tình hình kinh tế đang còn nhiều khó khăn, lãi suất cho vay cao sẽ là lực cản đối với sự phát triển sản xuất của doanh nghiệp. Ngân hàng cũng khó có thể đưa vốn ra thị trường. Dù huy động tiền gửi với mức lãi suất thấp nhưng đầu ra của tiền gửi lại không có, tiền không thể ra thị trường thì ngân hàng sẽ bị lỗ và bị co cụm lại.

Bên cạnh đó, một hiện tượng đáng quan tâm là nợ xấu ngân hàng vẫn giữ ở mức cao. Đến cuối tháng 3/2013, nợ xấu của các TCTD trên địa bàn TP HCM chiếm 5,96% tổng dư nợ. Tuy tỷ lệ nợ xấu đã giảm một chút so với cuối tháng 2 nhưng đã tăng về số tuyệt đối.

Theo phân tích của ông Trần Hoàng Ngân - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia, lãi suất tiền gửi xuống 7,5%/năm rất hợp lý vì đây là lãi suất thực dương khi lạm phát tính theo năm đang ở mức 6,6%. Thời gian tới, lạm phát được kiểm soát tốt thì khả năng lãi suất huy động vốn còn giảm. Khi đó, lãi suất cho vay có thể chỉ ở mức 10%/năm. Đây là mức lãi suất hợp lý để thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.

PGS.TS Nguyễn Văn Trình - Phó hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế Luật (ĐH Quốc gia TP HCM) cho rằng: Tuy huy động tăng trưởng cao nhưng các ngân hàng vẫn đẩy mạnh huy động để giữ khách hàng. Khi lãi suất giảm nữa và có phương án xử lý các khoản nợ xấu hiệu quả thì hoạt động tín dụng cũng sẽ cải thiện hơn.

Hiện nay, mức lãi suất cho vay được các TCTD trên địa bàn thành phố thực hiện theo đúng chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, áp dụng lãi suất không quá 11% đối với 5 lĩnh vực ưu tiên: nông nghiệp, nông thôn; sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu; công nghiệp hỗ trợ; doanh nghiệp nhỏ và vừa; cho vay để doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Trong đó, một số TCTD áp dụng các gói ưu đãi với lãi suất cho vay chỉ từ 8-11% đối với khách hàng truyền thống, khách hàng hoạt động kinh doanh hiệu quả.

Tăng cường kết nối ngân hàng và doanh nghiệp

Bà Nguyễn Thị Hồng - Phó chủ tịch UBND TP HCM cho biết: Biện pháp giải tỏa khó khăn cho cả doanh nghiệp và ngân hàng hiện nay là kết nối ngân hàng và doanh nghiệp để làm sao doanh nghiệp tiếp cận được vốn ngân hàng với lãi suất thấp và lãi suất phù hợp. Từ quý 4/2012, TP HCM đã triển khai hoạt động kết nối này và các ngân hàng đã đăng ký gần 70.000 tỉ đồng hỗ trợ cho doanh nghiệp. Đến nay, đã có 6 quận huyện trên địa bàn triển khai việc kết nối với ngân hàng và giúp các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn hỗ trợ gần 2.000 tỉ đồng. Trong tháng 5, tháng 6 tới sẽ có 4 quận, huyện nữa sẽ triển khai chương trình kết nối với số vốn vay dự kiến 1.000 tỉ đồng.

Ngoài ra, còn nhiều chương trình kết nối và hỗ trợ khác đã được triển khai trên địa bàn như: 48 doanh nghiệp tham gia chương trình bình ổn của thành phố đã thực hiện kết nối với 4 ngân hàng thương mại trên địa bàn với số vốn đăng ký là trên 9.000 tỉ đồng, lãi suất ưu đãi 6%/năm; ngân hàng Sacombank đăng ký chương trình hỗ trợ vốn cho tiểu thương tại các chợ với gói tín dụng 2.000 tỉ đồng; chương trình kết nối doanh nghiệp trong khu chế xuất, khu công nghiệp với ngân hàng cũng đang được triển khai… Việc làm này vừa giúp doanh nghiệp tăng cường khả năng tiếp cận với nguồn vốn vay vừa giúp ngân hàng thoát khỏi tình trạng “thừa tiền”.

Theo PGS.TS Nguyễn Văn Trình, để giải quyết tình trạng “thừa tiền” trong thời gian qua, một số ngân hàng chọn giải pháp tạm thời là mua trái phiếu Chính phủ để bù lỗ. Đa số các trái phiếu Chính phủ phát hành đều do các ngân hàng thương mại mua vào. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, các ngân hàng nên hướng đến những người sản xuất vừa và nhỏ vì trên thực tế nợ xấu từ những khách hàng này rất thấp; tăng cường cho vay theo dạng tín chấp tạo thêm điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn. Đồng thời, do sức mua đang thấp nên ngân hàng cũng cần khuyến khích cho vay tiêu dùng, kể cả tiêu dùng bất động sản vì nhu cầu vay vốn lãi suất thấp để mua nhà vẫn nhiều. Gói hỗ trợ 30.000 tỉ lãi suất 6%/năm của Chính phủ để hỗ trợ cho người dân mua nhà ở xã hội chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu hiện nay.

Ông Tô Duy Lâm cho rằng: Các ngân hàng cần thực hiện biện pháp ổn định lãi suất, tăng cường phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm thu hút và mở rộng quan hệ khách hàng, tăng thu nhập và giảm áp lực từ hoạt động tín dụng. Đây là giải pháp trước mắt song cũng là giải pháp chiến lược của các TCTD nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình tái cơ cấu hoạt động, đổi mới mô hình tăng trưởng. Đồng thời, các TCTD cần mở rộng và tăng trưởng tín dụng một cách hiệu quả. Khi tín dụng tăng trưởng hiệu quả, doanh nghiệp phục hồi và hoạt động tốt trở lại sẽ đảm bảo nguồn thu trả nợ cho ngân hàng và lan tỏa hiệu ứng đối với toàn nền kinh tế. Vấn đề này rất khó trong điều kiện hiện nay nhưng là giải pháp hữu hiệu cho cả ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế.

Bên cạnh đó, các ngân hàng cần đẩy mạnh tái cơ cấu hoạt động của hệ thống, không chỉ các TCTD yếu kém phải thực hiện tái cơ cấu hoạt động theo đề án và kế hoạch đề ra, các TCTD khác cũng cần thiết phải tái cơ cấu hoạt động thông qua việc đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động, đổi mới mô hình tăng trưởng. Đặc biệt hiện nay, các TCTD cần quan tâm đến giải pháp xử lý nợ xấu, hạn chế tối đa phát sinh nợ xấu mới.

Mai Phương

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,000 81,000
AVPL/SJC HCM 79,000 81,000
AVPL/SJC ĐN 79,000 81,000
Nguyên liệu 9999 - HN 77,250 ▼100K 77,500 ▼50K
Nguyên liệu 999 - HN 77,150 ▼100K 77,400 ▼50K
AVPL/SJC Cần Thơ 79,000 81,000
Cập nhật: 04/09/2024 18:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 77.350 ▼50K 78.550 ▼50K
TPHCM - SJC 79.000 81.000
Hà Nội - PNJ 77.350 ▼50K 78.550 ▼50K
Hà Nội - SJC 79.000 81.000
Đà Nẵng - PNJ 77.350 ▼50K 78.550 ▼50K
Đà Nẵng - SJC 79.000 81.000
Miền Tây - PNJ 77.350 ▼50K 78.550 ▼50K
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 77.350 ▼50K 78.550 ▼50K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 77.350 ▼50K
Giá vàng nữ trang - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 77.350 ▼50K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 77.250 ▼50K 78.050 ▼50K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 77.170 ▼50K 77.970 ▼50K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 76.370 ▼50K 77.370 ▼50K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 71.090 ▼50K 71.590 ▼50K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 57.290 ▼40K 58.690 ▼40K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 51.820 ▼40K 53.220 ▼40K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 49.480 ▼40K 50.880 ▼40K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 46.360 ▼30K 47.760 ▼30K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 44.410 ▼30K 45.810 ▼30K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 31.220 ▼20K 32.620 ▼20K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.020 ▼20K 29.420 ▼20K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 24.510 ▼10K 25.910 ▼10K
Cập nhật: 04/09/2024 18:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,635 7,815 ▼5K
Trang sức 99.9 7,625 7,805 ▼5K
NL 99.99 7,640
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,640
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,740 7,855 ▼5K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,740 7,855 ▼5K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,740 7,855 ▼5K
Miếng SJC Thái Bình 7,900 8,100
Miếng SJC Nghệ An 7,900 8,100
Miếng SJC Hà Nội 7,900 8,100
Cập nhật: 04/09/2024 18:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 77,200 ▼100K 78,500 ▼100K
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 77,200 ▼100K 78,600 ▼100K
Nữ Trang 99.99% 77,100 ▼150K 78,100 ▼100K
Nữ Trang 99% 75,327 ▼99K 77,327 ▼99K
Nữ Trang 68% 50,763 ▼68K 53,263 ▼68K
Nữ Trang 41.7% 30,221 ▼42K 32,721 ▼42K
Cập nhật: 04/09/2024 18:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,231.53 16,395.49 16,922.06
CAD 17,881.65 18,062.28 18,642.39
CHF 28,516.72 28,804.77 29,729.90
CNY 3,420.45 3,455.00 3,566.50
DKK - 3,612.05 3,750.50
EUR 26,747.53 27,017.71 28,215.12
GBP 31,724.71 32,045.17 33,074.37
HKD 3,105.42 3,136.78 3,237.53
INR - 295.06 306.87
JPY 165.89 167.56 175.58
KRW 16.00 17.78 19.40
KWD - 81,071.50 84,315.57
MYR - 5,656.89 5,780.47
NOK - 2,274.60 2,371.26
RUB - 268.97 297.77
SAR - 6,601.33 6,865.48
SEK - 2,361.72 2,462.08
SGD 18,528.88 18,716.05 19,317.15
THB 641.36 712.63 739.94
USD 24,645.00 24,675.00 25,015.00
Cập nhật: 04/09/2024 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,700.00 24,700.00 25,040.00
EUR 26,935.00 27,043.00 28,166.00
GBP 31,968.00 32,096.00 33,089.00
HKD 3,125.00 3,138.00 3,243.00
CHF 28,738.00 28,853.00 29,751.00
JPY 166.76 167.43 175.13
AUD 16,335.00 16,401.00 16,910.00
SGD 18,675.00 18,750.00 19,302.00
THB 706.00 709.00 740.00
CAD 18,008.00 18,080.00 18,629.00
NZD 15,102.00 15,610.00
KRW 17.75 19.58
Cập nhật: 04/09/2024 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24700 24700 25040
AUD 16485 16535 17037
CAD 18156 18206 18666
CHF 29058 29108 29661
CNY 0 3461 0
CZK 0 1060 0
DKK 0 3713 0
EUR 27240 27290 28000
GBP 32349 32399 33052
HKD 0 3185 0
JPY 169.49 169.99 175.5
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.3 0
LAK 0 0.993 0
MYR 0 5887 0
NOK 0 2368 0
NZD 0 15172 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2440 0
SGD 18831 18881 19432
THB 0 686.1 0
TWD 0 772 0
XAU 7900000 7900000 8100000
XBJ 7300000 7300000 7620000
Cập nhật: 04/09/2024 18:00