Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Tin tức kinh tế ngày 5/8: Giá vàng có thể lên 138 triệu đồng/lượng

19:21 | 05/08/2021

804 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - Chính phủ đồng ý miễn, giảm thuế cho người dân, doanh nghiệp ảnh hưởng Covid-19; cảng Cát Lái đã giảm thiểu ách tắc hàng hóa; thu ngân sách của ngành Thuế trong 7 tháng đầu năm 2021 đạt 68,4% dự toán pháp lệnh; giá vàng có thể lên 138 triệu đồng/lượng... là những tin tức kinh tế đáng chú ý ngày 5/8.

Chính phủ đồng ý miễn, giảm thuế cho người dân, doanh nghiệp ảnh hưởng Covid-19

Ngày 5/8, Văn phòng Chính phủ có thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về một số giải pháp miễn, giảm thuế nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính

Thủ tướng Chính phủ đánh giá cao việc Bộ Tài chính đã nhanh chóng, kịp thời đề xuất Thường trực Chính phủ về các giải pháp miễn, giảm thuế ngay sau khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 30 ngày 28/7/2021 nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19.

Thường trực Chính phủ và các cơ quan tham dự cuộc họp cơ bản nhất trí với các giải pháp miễn, giảm thuế hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch COVID-19 theo đề xuất của Bộ Tài chính tại cuộc họp.

Thủ tướng cũng nêu rõ, thời hạn áp dụng các chính sách miễn, giảm thuế trước mắt thực hiện trong năm 2021.

Cảng Cát Lái đã giảm thiểu ách tắc hàng hóa

Liên quan đến việc giải tỏa áp lực hàng hóa tại cảng Cát Lái, sáng 5/8, ông Nguyễn Xuân Sang, Cục trưởng Cục Hàng hải Việt Nam (Bộ Giao thông Vận tải) cho biết, với sự vào cuộc chỉ đạo quyết liệt của Bộ Giao thông Vận tải, các bộ, ngành liên quan, đến thời điểm này tình hình ách tắc hàng hóa tại cảng Cát Lái đã giảm nhiệt. Nếu như trong ngày 3/8, lượng hàng tồn toàn cảng là gần 108.800 TEUs, chiếm 87,7% thì ngày 4/8, lượng hàng tồn giảm còn hơn 106.700 Teus, chiếm 85,1%.

Số tàu hoạt động khu vực cảng là 41 tàu, giảm hơn 28%. Hàng nhập cũng giảm hơn 6.300 TEUs so với cùng thời điểm tuần trước. Lượng hàng giảm này đã được chuyển từ Cát Lái về các cảng lân cận và khu vực Cái Mép.

Trước đó, cuối tháng 7/2021, Tân Cảng Sài Gòn đã có văn bản báo cáo các cơ quan chức năng về khó khăn trong tổ chức hoạt động cảng Cát Lái.

Theo báo cáo, sau 3 tuần TP Hồ Chí Minh thực hiện giãn cách theo nguyên tắc Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ để phòng, chống dịch COVID-19, dung lượng tồn bãi tại cảng Cát Lái luôn chạm mức hết công suất; đặc biệt, dung lượng dành cho hàng nhập luôn trên 100% công suất. Cảng Cát Lái đối mặt nguy cơ tạm ngừng hoạt động để chờ giải phóng hàng.

Thu ngân sách của ngành Thuế trong 7 tháng đầu năm 2021 đạt 68,4% dự toán

Báo cáo từ Tổng cục Thuế cho biết, tổng thu ngân sách Nhà nước (NSNN) tháng 7/2021 do cơ quan Thuế quản lý ước đạt 104.400 tỷ đồng. Luỹ kế 7 tháng đầu năm, thu ngân sách của ngành Thuế đạt 763.805 tỷ đồng, bằng 68,4% so với dự toán pháp lệnh, bằng 113,1% so với cùng kỳ năm 2020.

Theo Tổng cục Thuế, thu NSNN trong 7 tháng đầu năm đạt khá chủ yếu do tình hình kinh tế hồi phục từ những tháng cuối năm 2020 duy trì cho đến nửa đầu năm 2021 và tăng thu đột biến từ một số nguồn thu do được hưởng lợi từ các chính sách tài khóa, tiền tệ mà Chính phủ đã triển khai thực hiện trong năm 2020, trong đó một số ngành tăng trưởng khá như: ngân hàng, chứng khoán, bất động sản, sản xuất lắp ráp ô tô...

Điểm danh các ngân hàng bị nợ xấu bao phủ

Theo thống kê số liệu từ báo cáo tài chính quý II năm nay của gần 30 ngân hàng, tổng số dư nợ xấu đến thời điểm 30/6 đã tăng 4,5% so với cuối năm trước với gần 125.000 tỷ đồng.

Tin tức kinh tế ngày 5/8: Giá vàng có thể lên 138 triệu đồng/lượng

Trong đó, 58,6% số ngân hàng được thống kê có số dư nợ xấu tăng so với đầu năm với số dư nợ xấu trên 81.600 tỷ đồng.

Xét về tốc độ tăng dư nợ xấu trong nửa đầu năm, Nam A Bank dẫn đầu với mức tăng lên tới 83% lên 1.362 tỷ đồng. Tiếp theo là 2 "ông lớn" quốc doanh VietinBank và Vietcombank với 14.477 tỷ đồng và 6.865 tỷ đồng dư nợ xấu tính đến cuối tháng 6. Con số này lần lượt tăng tương ứng 52% và 31% sau nửa năm.

Trong 4 ngân hàng quốc doanh, quy mô nợ xấu của Agribank hơn 24.400 tỷ đồng tính đến cuối quý II. Tiếp theo là BIDV đứng kế sau đó với quy mô nợ xấu ở mức 21.141 tỷ đồng. Hai ngân hàng còn lại trong nhóm big4 là VietinBank và Vietcombank đứng lần lượt ở vị trí thứ 3 và thứ 5.

Ngược lại, Techcombank gây chú ý nhất khi tỷ lệ nợ xấu xuống mức cực thấp - đây cũng là trường hợp đầu tiên trong lịch sử hệ thống ngân hàng Việt Nam một ngân hàng thương mại cổ phần có tỷ lệ nợ xấu thấp chỉ 0,36%.

Theo báo cáo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 mới đây của Chính phủ, ước tính đến cuối tháng 6, tỷ lệ nợ xấu nội bảng khoảng 1,78% - 2%. Nếu tính thêm cả nợ xấu đã bán cho VAMC và nợ đã thực hiện các biện pháp phân loại nợ (không bao gồm nợ xấu của các ngân hàng thương mại yếu kém) thì tỷ lệ nợ xấu hệ thống khoảng 2,91% - 3,15%, vẫn thấp hơn mục tiêu đề ra là dưới 5%.

Giá vàng có thể lên 138 triệu đồng/lượng

Giá vàng SJC tại Hà Nội sáng 5/8 ở mức 56,4 - 57,85 triệu đồng/lượng (mua vào - bán ra), giảm 50.000 đồng/lượng mỗi chiều. Tại TPHCM, giá vàng SJC được niêm yết tại 56,55 - 57,25 triệu đồng/lượng, giảm 100.000 đồng/lượng mỗi chiều.

Trên thế giới, lúc 7h30 hôm nay (5/8), giá vàng giao ngay qua niêm yết của Kitco.com có biên độ giảm nhẹ, giao dịch ở mức 1.811 USD/ounce.

Theo dự báo của quỹ Quadriga Igneo (đơn vị đã dự đoán thành công mức tăng kỷ lục của vàng 2.075,47 USD/ounce vào năm ngoái), giá vàng vẫn có khả năng tăng lên 3.000-5.000 USD/ounce (tương ứng 83-138 triệu đồng/lượng) trong vòng 3 - 5 năm tới khi các thị trường đánh giá thấp những rủi ro dài hạn liên quan đến việc ngân hàng trung ương thắt chặt chính sách tiền tệ sau khi in tiền ồ ạt.

M.C

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 78,500 80,500
AVPL/SJC HCM 78,500 80,500
AVPL/SJC ĐN 78,500 80,500
Nguyên liệu 9999 - HN 77,400 77,550
Nguyên liệu 999 - HN 77,300 77,450
AVPL/SJC Cần Thơ 78,500 80,500
Cập nhật: 06/09/2024 18:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 77.400 78.600
TPHCM - SJC 78.500 80.500
Hà Nội - PNJ 77.400 78.600
Hà Nội - SJC 78.500 80.500
Đà Nẵng - PNJ 77.400 78.600
Đà Nẵng - SJC 78.500 80.500
Miền Tây - PNJ 77.400 78.600
Miền Tây - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - PNJ 77.400 78.600
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 77.400
Giá vàng nữ trang - SJC 78.500 80.500
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 77.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 77.300 78.100
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 77.220 78.020
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 76.420 77.420
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 71.140 71.640
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 57.330 58.730
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 51.860 53.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 49.520 50.920
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 46.390 47.790
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 44.440 45.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 31.240 32.640
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.040 29.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 24.520 25.920
Cập nhật: 06/09/2024 18:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,645 7,820
Trang sức 99.9 7,635 7,810
NL 99.99 7,650
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,650
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,750 7,860
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,750 7,860
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,750 7,860
Miếng SJC Thái Bình 7,850 8,050
Miếng SJC Nghệ An 7,850 8,050
Miếng SJC Hà Nội 7,850 8,050
Cập nhật: 06/09/2024 18:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 78,500 80,500
SJC 5c 78,500 80,520
SJC 2c, 1C, 5 phân 78,500 80,530
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 77,300 78,600
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 77,300 78,700
Nữ Trang 99.99% 77,200 78,200
Nữ Trang 99% 75,426 77,426
Nữ Trang 68% 50,831 53,331
Nữ Trang 41.7% 30,263 32,763
Cập nhật: 06/09/2024 18:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,138.45 16,301.47 16,825.30
CAD 17,766.85 17,946.31 18,522.99
CHF 28,510.62 28,798.61 29,724.01
CNY 3,400.75 3,435.10 3,546.01
DKK - 3,598.10 3,736.07
EUR 26,648.94 26,918.12 28,111.57
GBP 31,610.56 31,929.86 32,955.89
HKD 3,076.58 3,107.66 3,207.52
INR - 292.40 304.11
JPY 167.72 169.42 177.53
KRW 16.02 17.80 19.41
KWD - 80,376.60 83,594.21
MYR - 5,624.37 5,747.33
NOK - 2,271.17 2,367.72
RUB - 260.11 287.95
SAR - 6,535.14 6,796.75
SEK - 2,356.22 2,456.39
SGD 18,476.10 18,662.72 19,262.43
THB 648.49 720.54 748.17
USD 24,400.00 24,430.00 24,770.00
Cập nhật: 06/09/2024 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,500.00 24,510.00 24,850.00
EUR 26,884.00 26,992.00 28,112.00
GBP 31,902.00 32,030.00 33,021.00
HKD 3,102.00 3,114.00 3,219.00
CHF 28,698.00 28,813.00 29,716.00
JPY 167.85 168.52 176.38
AUD 16,305.00 16,370.00 16,878.00
SGD 18,633.00 18,708.00 19,262.00
THB 716.00 719.00 751.00
CAD 17,937.00 18,009.00 18,559.00
NZD 15,101.00 15,608.00
KRW 17.74 19.59
Cập nhật: 06/09/2024 18:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24440 24440 24770
AUD 16373 16423 16933
CAD 18033 18083 18534
CHF 28949 28999 29566
CNY 0 3438 0
CZK 0 1060 0
DKK 0 3713 0
EUR 27081 27131 27833
GBP 32153 32203 32870
HKD 0 3185 0
JPY 170.18 170.68 176.2
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.3 0
LAK 0 1.015 0
MYR 0 5887 0
NOK 0 2368 0
NZD 0 15116 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2400 0
SGD 18739 18789 19351
THB 0 694.3 0
TWD 0 772 0
XAU 7950000 7950000 8050000
XBJ 7300000 7300000 7620000
Cập nhật: 06/09/2024 18:00