Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Thuế thu nhập cá nhân - cần điều chỉnh như thế nào?

18:00 | 04/10/2012

927 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(Petrotimes) - Hiện nay, Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý vào Dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Thuế thu nhập cá nhân với tinh thần mới là việc rút gọn biểu thuế từ 7 bậc (5-35%) xuống còn 6 bậc (5-30%). Điều này giúp giảm bớt quá nhiều cung bậc trong áp thuế, dễ gây tình trạng lách luật, thất thu thuế hoặc những tiêu cực trong công tác hành chính thuế...

Dự thảo dự kiến sửa đổi nâng mức giảm trừ gia cảnh cho cá nhân người nộp thuế từ 4 triệu đồng/tháng lên 6 triệu đồng/tháng; nâng mức giảm trừ cho người phụ thuộc từ 1,6 triệu đồng/tháng lên 2,4 triệu đồng/tháng với giải trình các mức này được cân nhắc theo 4 căn cứ: Tốc độ tăng trưởng GDP, chỉ số CPI, đề án cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công giai đoạn 2013-2020 và kết quả điều tra xã hội học của Tổng cục Thống kê về thu nhập và mức sống dân cư năm 2010, cũng như tham khảo kinh nghiệm cải cách thuế thu nhập cá nhân (TNCN) của một số nước trên thế giới.

Ban soạn thảo dự thảo khẳng định chắc như đinh đóng cột rằng, các mức điều chỉnh mới này đã được lựa chọn ở mức tối thiểu, sát với tính toán theo tốc độ tăng GDP đến năm 2014 và chắc chắn sẽ “không gây khó khăn cho đời sống của người nộp thuế”…

Người lao động sẽ được giảm trừ gia cảnh đến 9 triệu đồng/tháng trong việc tính thuế thu nhập cá nhân (ảnh: Mạnh Thắng)

Tuy nhiên, sự khẳng định quá chắc chắn này dường như chỉ dựa trên quá nhiều sự giả định không chắc chắn khác, đó là:

Thứ nhất, coi mức khởi điểm 4 triệu đồng và 1,6 triệu đồng trước đây là phù hợp, trong khi thực tế ngay từ khi xây dựng đã cho thấy các con số đó là hết sức phi lý trong bối cảnh lạm phát cao và mức sống thực tế của Việt Nam trong thời điểm đó.

Thứ hai, việc xây dựng các chỉ số này chỉ tính đến năm 2014, thế còn sau đó thì không tính đến, nghĩa là đã giả định sự lạc hậu ngay sau năm 2014 của những mức tính toán trong Dự thảo mới nhất này.

Thứ ba, quan trọng hơn, đó là sự giả định CPI trong thời gian tới sẽ dưới 2 con số. Đó là mục tiêu hướng tới trong quản lý nhà nước, chứ không phải thực tế. Còn nhớ, mới năm 2011, Chính phủ đã đặt ra kế hoạch phấn đấu CPI cho năm đó chỉ là 7,5%, những thực tế sau 3 lần điều chỉnh, mức CPI “chốt lại” theo Tổng cục Thống kê vẫn là trên 18,5%.

Thứ tư, mục tiêu an sinh xã hội như là trọng tâm chính sách của Chính phủ trong những năm tới sẽ bị coi nhẹ vì dự thảo mới này đưa ra mức khởi điểm tính thuế và giảm trừ gia cảnh kiểu “phú quý giật lùi”. Cụ thể, mức giảm trừ gia cảnh cũ 4 triệu đồng/tháng đang cao gấp 4,8 lần mức lương tối thiểu (830.000 đồng/tháng), trong khi đó mức giảm trừ gia cảnh mới 6 triệu đồng/tháng dự kiến áp dụng cho năm 2014 chỉ cao gấp 3,6 lần mức lương tối thiểu dự kiến. Nếu so sánh với mức lương tối thiểu năm 2009, thời điểm Luật Thuế TNCN có hiệu lực thi hành thì mức giảm còn lớn hơn nữa. Bởi, năm 2009, mức giảm trừ gia cảnh 4 triệu đồng/tháng, cao gấp 6,15 lần mức lương tối thiểu là 650.000 đồng/tháng. Chưa kể, mức giảm trừ 6 triệu đồng/tháng nếu được thông qua sẽ không chỉ áp dụng cho riêng một năm 2014, mà có thể kéo dài trong các năm tiếp sau đó, tức là người nghèo sẽ càng khó khăn hơn cùng với tăng trưởng, lạm phát và nhất là sau điều chỉnh thuế TNCN.

Thứ năm, sẽ bất cập khi đưa ra giải trình rằng, “mức giảm trừ 6 triệu đồng/tháng tương đương 1,7 lần mức GDP bình quân đầu người năm 2014 (cao nhất so với các nước trong khu vực có điều kiện tương đồng và khá hơn nước ta, như Malaysia là 0,312 lần; Thái Lan 0,526; Indonesia 0,527 và Trung Quốc 1,23).

Ngoài ra, thì mức thu nhập tính thuế từng bậc cũng cần được nâng tương ứng.

Nếu xét theo đà và áp lực lạm phát còn khá cao trong thời gian tới, nhất là về giá lương thực, thực phẩm và y tế, cũng như xăng dầu, điện, nước... thì chắc chắn “gói thu nhập tối thiểu” dành cho 1 gia đình trung bình ở đô thị nước ta này còn tiếp tục gia tăng với tốc độ chóng mặt.

Hơn nữa, việc Luật Thuế TNCN “chốt” rõ mức khởi điểm tính thuế cụ thể bằng đơn vị VND vừa thấp, dễ lạc hậu, lại vừa cứng gây khó cho mỗi lần điều chỉnh trước các biến động tiền lương trên thực tế.

Với tinh thần đó, nên điều chỉnh thuế TNCN trong thời gian tới theo hướng:

Một là, nâng mức thu nhập khởi điểm tính thuế TNCN cao hơn mức hiện nay và được tính theo số lần mức lương tối thiểu. Cụ thể, Luật Thuế TNCN sửa đổi cần khẳng định chỉ có những người thu nhập gấp 9-10 lần lương tối thiểu hiện hành mới phải nộp thuế với 5 mức lũy tiến từ 10-30%.

Hai là, nâng mức giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc theo yêu cầu mức sống và mức lạm phát hiện hành. Mức giảm trừ gia cảnh cho nguời phụ thuộc cũng cần được nâng lên và được tính theo mức lương tối thiểu, tuy nhiên ở mức thấp hơn người nộp thuế.

Cụ thể, nên tính mức giảm trừ gia cảnh bằng 3-4 lần mức lương tối thiểu, tức khoảng trên 3 triệu đồng, điều này không chỉ bảo đảm tăng an sinh xã hội, vừa thuận lợi và đồng nhất với cách tính thuế TNCN của người nộp thuế như điều chỉnh mới nêu trên.

Ba là, điều chỉnh về đối tượng, công tác kê khai nộp thuế, quyết toán thuế TNCN. Dự thảo Luật Thuế TNCN điều chỉnh cần có thêm các quy định mới nhằm mở rộng đối tượng và bao quát hết các nguồn và khoản “thu nhập mềm” để chống thất thu ngân sách Nhà nước đối với các khoản thu của quan chức, nghệ sĩ và doanh nhân, kể cả những hoạt động đầu cơ và buôn lậu khác...

Việc tự động khấu trừ tại nguồn 10% tất cả các khoản thu nhập trên 1.000.000 đồng/lượt bất kể người thụ hưởng đương chức hay nghỉ hưu đã tạo nhiều bức xúc và thiệt thòi cho người lao động do sự áp dụng không giống nhau giữa các đơn vị và nhất là do thủ tục hoàn thuế cho các khoản khấu trừ bắt buộc trên là không rõ ràng và không thuận lợi cho người chịu thuế.

Về tổng thể, cần có quy định cụ thể hóa các cách tính và thông báo rộng rãi cho xã hội biết, sao cho các thủ tục thu và hoàn thuế TNCN ngày càng trở nên chính xác, dễ làm và dễ kiểm tra nhất, kích thích tính tự giác và tôn trong quyền lợi của người lao động, do đó nâng cao hiệu quả toàn diện của công tác thuế...

TS Nguyễn Minh Phong

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 80,000 82,000
AVPL/SJC HCM 80,000 82,000
AVPL/SJC ĐN 80,000 82,000
Nguyên liệu 9999 - HN 80,050 80,150
Nguyên liệu 999 - HN 79,950 80,050
AVPL/SJC Cần Thơ 80,000 82,000
Cập nhật: 24/09/2024 08:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 79.900 81.100
TPHCM - SJC 80.000 82.000
Hà Nội - PNJ 79.900 81.100
Hà Nội - SJC 80.000 82.000
Đà Nẵng - PNJ 79.900 81.100
Đà Nẵng - SJC 80.000 82.000
Miền Tây - PNJ 79.900 81.100
Miền Tây - SJC 80.000 82.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 79.900 81.100
Giá vàng nữ trang - SJC 80.000 82.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 79.900
Giá vàng nữ trang - SJC 80.000 82.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 79.900
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 79.700 80.500
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 79.620 80.420
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 78.800 79.800
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 73.340 73.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 59.130 60.530
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 53.490 54.890
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 51.080 52.480
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 47.860 49.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 45.840 47.240
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 32.240 33.640
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.940 30.340
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 25.320 26.720
Cập nhật: 24/09/2024 08:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,905 8,080
Trang sức 99.9 7,895 8,070
NL 99.99 7,940
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,940
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,010 8,120
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,010 8,120
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,010 8,120
Miếng SJC Thái Bình 8,000 8,200
Miếng SJC Nghệ An 8,000 8,200
Miếng SJC Hà Nội 8,000 8,200
Cập nhật: 24/09/2024 08:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 80,000 82,000
SJC 5c 80,000 82,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 80,000 82,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 79,500 80,800
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 79,500 80,900
Nữ Trang 99.99% 79,400 80,400
Nữ Trang 99% 77,604 79,604
Nữ Trang 68% 52,327 54,827
Nữ Trang 41.7% 31,180 33,680
Cập nhật: 24/09/2024 08:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,333.34 16,498.32 17,028.44
CAD 17,675.88 17,854.42 18,428.12
CHF 28,193.38 28,478.16 29,393.21
CNY 3,417.83 3,452.35 3,563.82
DKK - 3,596.00 3,733.89
EUR 26,623.87 26,892.80 28,085.07
GBP 31,817.13 32,138.52 33,171.18
HKD 3,082.47 3,113.61 3,213.66
INR - 293.98 305.75
JPY 165.47 167.14 175.10
KRW 15.91 17.68 19.19
KWD - 80,527.47 83,750.96
MYR - 5,797.37 5,924.10
NOK - 2,293.20 2,390.68
RUB - 252.57 279.61
SAR - 6,545.38 6,807.39
SEK - 2,359.98 2,460.29
SGD 18,568.76 18,756.33 19,359.00
THB 660.11 733.46 761.58
USD 24,430.00 24,460.00 24,800.00
Cập nhật: 24/09/2024 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,410.00 24,430.00 24,770.00
EUR 26,908.00 27,016.00 28,135.00
GBP 32,121.00 32,250.00 33,244.00
HKD 3,094.00 3,106.00 3,210.00
CHF 28,356.00 28,470.00 29,355.00
JPY 166.11 166.78 174.58
AUD 16,450.00 16,516.00 17,026.00
SGD 18,706.00 18,781.00 19,339.00
THB 726.00 729.00 762.00
CAD 17,794.00 17,865.00 18,410.00
NZD 15,082.00 15,589.00
KRW 17.65 19.49
Cập nhật: 24/09/2024 08:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24460 24460 24800
AUD 16466 16516 17128
CAD 17847 17897 18454
CHF 28595 28695 29298
CNY 0 3455.7 0
CZK 0 1044 0
DKK 0 3663 0
EUR 26966 27016 27819
GBP 32305 32355 33118
HKD 0 3155 0
JPY 168.69 169.19 175.75
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.2 0
LAK 0 1.023 0
MYR 0 5974 0
NOK 0 2317 0
NZD 0 15147 0
PHP 0 417 0
SEK 0 2405 0
SGD 18753 18803 19455
THB 0 706.6 0
TWD 0 768 0
XAU 8100000 8100000 8200000
XBJ 7400000 7400000 7800000
Cập nhật: 24/09/2024 08:00