Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Thủ tướng: Dự án công nghiệp Vùng KTTĐ Bắc Bộ mới dừng lại ở gia công, lắp ráp

15:35 | 25/06/2019

188 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
(PetroTimes) - “Phát triển các dự án công nghiệp tập trung chủ yếu tại Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh (với các dự  án lớn của Samsung, LG, Microsoft, Canon...) và mới dừng lại ở gia công, lắp ráp với giá trị gia tăng thấp”, Thủ tướng nêu rõ.

Ngày 25/6, tại Hưng Yên, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng các Phó Thủ tướng: Trương Hòa Bình, Vương Đình Huệ, Vũ Đức Đam chủ trì Hội nghị phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.

Thủ tướng: Dự án công nghiệp Vùng KTTĐ Bắc Bộ mới dừng lại ở gia công, lắp ráp
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu kết luận Hội nghị.

Phát biểu kết luận Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao Đảng bộ, chính quyền các địa phương trong Vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) Bắc Bộ về kết quả đạt được thời gian qua. Vùng đóng góp hơn 32% GDP cả nước. Đặc biệt, đây, là vùng duy nhất trong 4 vùng kinh tế trọng điểm trên cả nước có 100% các tỉnh, thành phố trong vùng có điều tiết về ngân sách Trung ương.

Tuy nhiên, Thủ tướng cho rằng, tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ chưa cao, chưa bền vững; tỷ trọng dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của vùng có xu hướng giảm (từ gần 51% năm 2016 xuống còn khoảng 47% năm 2018).

Sản xuất nông nghiệp nhìn chung còn manh mún, nhỏ lẻ vẫn là phổ biến, liên doanh, liên kết trong sản xuất, kinh doanh còn rất yếu; trình độ canh tác, công nghệ sơ chế, chế biến còn lạc hậu… Tình trạng ô nhiễm môi trường ở đô thị, nông thôn, lưu vực sông, làng nghề, cụm công nghiệp… rất phức tạp. Việc di dân vào Hà Nội đã gây quá tải kết cấu hạ tầng.

Khu vực công nghiệp chủ yếu phát triển chiều rộng, đóng góp của khoa học kỹ thuật, năng suất các yếu tố tổng hợp còn hạn chế. Một số địa phương vẫn tập trung vào khai thác tài nguyên, gia công. Các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, logistics, dịch vụ cao cấp phát triển chưa tương xứng.

Việc gắn kết giữa các dự án FDI và doanh nghiệp trong nước tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế, chưa có tính chất lan tỏa. Phần lớn (gần 65% số vốn) các dự án FDI thường tập trung vào các lĩnh vực, các ngành có nhiều ưu đãi đầu tư, nhân công giá rẻ.

Phát triển các dự án công nghiệp tập trung chủ yếu tại Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh (với các dự án lớn của Samsung, LG, Microsoft, Canon...) và mới dừng lại ở gia công, lắp ráp với giá trị gia tăng thấp.

Các hoạt động hợp tác liên kết nội vùng và giữa các vùng chưa thật sự chủ động, hiệu quả. Chất lượng tăng trưởng và mức độ lan tỏa của Vùng KTTĐ chưa thực sự rõ nét. Chỉ số PCI, PAPI ở một số địa phương còn thấp.

Cấu trúc không gian phát triển Vùng KTTĐ Bắc Bộ còn hình thành thụ động, chưa rõ nét theo định hướng (như Hà Nội chậm phát triển các đô thị vệ tinh Sơn Tây, Xuân Mai; Hải Phòng và Quảng Ninh được quy hoạch là khu du lịch mang tầm cỡ vùng và quốc gia nhưng chưa được tập trung đầu tư...).

Thủ tướng: Dự án công nghiệp Vùng KTTĐ Bắc Bộ mới dừng lại ở gia công, lắp ráp
Toàn cảnh Hội nghị

Về định hướng phát triển vùng KTTĐ Bắc Bộ thời gian tới, Thủ tướng nhấn mạnh tinh thần, phải tiếp tục giữ vững và phát huy hơn nữa vai trò là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật của cả nước; phấn đấu cùng vùng KTTĐ Nam Bộ là hai đầu tàu, trung tâm kinh tế lớn nhất và phát triển năng động của cả nước.

Về định hướng phát triển và xác định ngành nghề trụ cột ưu tiên, quy hoạch phân bổ không gian phù hợp hơn. Danh mục dự án hạ tầng liên kết vùng, cả nội vùng và kết cấu ngoại vùng cần làm rõ hơn. Cần có cơ chế thu hút đầu tư từ Trung ương, địa phương, đầu tư xã hội và đặc biệt là đầu tư tư nhân. Cần có thể chế liên kết vùng, cơ chế phối hợp vùng; liên kết trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ rõ nét hơn. Mục tiêu phát triển của vùng phải là đi đầu về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, đi đầu trong 3 đột phá chiến lược và đặc biệt là cơ cấu lại nền kinh tế trên tinh thần là phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường.

Làm rõ hơn mô hình tăng trưởng, đó là kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh. Làm tốt hơn dịch vụ logistic. Chúng ta cần xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung trong cuộc cách mạng 4.0, Thủ tướng nói. Là vùng có dân trí cao, nên cần phát huy giá trị văn hóa, con người, coi đây là thế mạnh, tiềm năng cần khơi dậy.

Vùng cần làm rõ hơn đột phá về tăng trưởng xanh như công nghệ cao, môi trường tốt.

Quan tâm phát triển đô thị là một động lực tăng trưởng, đồng thời tiếp tục xây dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh thực hiện các giải pháp cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, chống tham nhũng, lãng phí. Không chỉ lo vấn đề kinh tế mà cần quan tâm đến cả vấn đề xã hội, an toàn cho người dân.

Về thể chế điều hành và mô hình vùng, Thủ tướng cho biết, sẽ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm việc với các cơ quan liên quan, đề xuất mô hình cụ thể, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Thủ tướng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì tổng hợp các ý kiến phát biểu, các đề xuất tại Hội nghị, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị về các giải pháp chủ yếu phát triển vùng KTTĐ Bắc Bộ.

Tin kinh tế ngày 24/6: Thủ tướng yêu cầu xác minh Asanzo nhập hàng nước khác gắn nhãn Việt Nam
Thủ tướng biểu dương ngành Điện trong công tác phòng chống thiên tai
Thủ tướng: Báo chí phải phản ánh trung thực dòng chảy chính của xã hội
Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ thăm Chi nhánh BIDV Yangon
Thủ tướng: Muốn đổi mới điều hành phải sát dân, sát cơ sở, chống tiêu cực, tham nhũng

Hải Anh

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 84,600 ▼400K 86,600 ▼400K
AVPL/SJC HCM 84,600 ▼400K 86,600 ▼400K
AVPL/SJC ĐN 84,600 ▼400K 86,600 ▼400K
Nguyên liệu 9999 - HN 84,200 ▼1300K 85,000 ▼800K
Nguyên liệu 999 - HN 84,100 ▼1300K 84,900 ▼800K
AVPL/SJC Cần Thơ 84,600 ▼400K 86,600 ▼400K
Cập nhật: 25/11/2024 16:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 84.400 ▼1100K 85.800 ▼1000K
TPHCM - SJC 84.600 ▼400K 86.600 ▼400K
Hà Nội - PNJ 84.400 ▼1100K 85.800 ▼1000K
Hà Nội - SJC 84.600 ▼400K 86.600 ▼400K
Đà Nẵng - PNJ 84.400 ▼1100K 85.800 ▼1000K
Đà Nẵng - SJC 84.600 ▼400K 86.600 ▼400K
Miền Tây - PNJ 84.400 ▼1100K 85.800 ▼1000K
Miền Tây - SJC 84.600 ▼400K 86.600 ▼400K
Giá vàng nữ trang - PNJ 84.400 ▼1100K 85.800 ▼1000K
Giá vàng nữ trang - SJC 84.600 ▼400K 86.600 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 84.400 ▼1100K
Giá vàng nữ trang - SJC 84.600 ▼400K 86.600 ▼400K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 84.400 ▼1100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 84.300 ▼1100K 85.100 ▼1100K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 84.220 ▼1090K 85.020 ▼1090K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 83.350 ▼1090K 84.350 ▼1090K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 77.550 ▼1010K 78.050 ▼1010K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 62.580 ▼820K 63.980 ▼820K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 56.620 ▼750K 58.020 ▼750K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 54.070 ▼710K 55.470 ▼710K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 50.660 ▼670K 52.060 ▼670K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 48.530 ▼650K 49.930 ▼650K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 34.150 ▼460K 35.550 ▼460K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 30.660 ▼420K 32.060 ▼420K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 26.830 ▼370K 28.230 ▼370K
Cập nhật: 25/11/2024 16:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,340 ▼130K 8,570 ▼100K
Trang sức 99.9 8,330 ▼130K 8,560 ▼100K
NL 99.99 8,360 ▼130K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,330 ▼130K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,430 ▼130K 8,580 ▼100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,430 ▼130K 8,580 ▼100K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,430 ▼130K 8,580 ▼100K
Miếng SJC Thái Bình 8,460 ▼70K 8,660 ▼40K
Miếng SJC Nghệ An 8,460 ▼70K 8,660 ▼40K
Miếng SJC Hà Nội 8,460 ▼70K 8,660 ▼40K
Cập nhật: 25/11/2024 16:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,217.57 16,381.38 16,906.88
CAD 17,788.08 17,967.76 18,544.15
CHF 27,837.96 28,119.15 29,021.19
CNY 3,420.62 3,455.18 3,566.02
DKK - 3,508.82 3,643.18
EUR 25,970.41 26,232.74 27,394.35
GBP 31,206.12 31,521.33 32,532.51
HKD 3,184.56 3,216.72 3,319.91
INR - 300.55 312.56
JPY 159.21 160.82 168.47
KRW 15.67 17.41 18.89
KWD - 82,415.60 85,710.29
MYR - 5,643.43 5,766.50
NOK - 2,266.64 2,362.87
RUB - 231.92 256.74
SAR - 6,756.71 7,005.04
SEK - 2,272.81 2,369.30
SGD 18,462.56 18,649.05 19,247.29
THB 653.42 726.02 753.82
USD 25,167.00 25,197.00 25,506.00
Cập nhật: 25/11/2024 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,210.00 25,226.00 25,506.00
EUR 26,083.00 26,188.00 27,287.00
GBP 31,381.00 31,507.00 32,469.00
HKD 3,198.00 3,211.00 3,315.00
CHF 27,968.00 28,080.00 28,933.00
JPY 160.90 161.55 168.57
AUD 16,309.00 16,374.00 16,871.00
SGD 18,574.00 18,649.00 19,169.00
THB 719.00 722.00 752.00
CAD 17,893.00 17,965.00 18,483.00
NZD 14,636.00 15,128.00
KRW 17.34 19.04
Cập nhật: 25/11/2024 16:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25220 25220 25506
AUD 16221 16321 16886
CAD 17878 17978 18532
CHF 28137 28167 28960
CNY 0 3473.5 0
CZK 0 997 0
DKK 0 3559 0
EUR 26198 26298 27170
GBP 31518 31568 32686
HKD 0 3266 0
JPY 161.7 162.2 168.73
KHR 0 6.032 0
KRW 0 17.8 0
LAK 0 1.11 0
MYR 0 5865 0
NOK 0 2284 0
NZD 0 14696 0
PHP 0 407 0
SEK 0 2300 0
SGD 18513 18643 19370
THB 0 680.6 0
TWD 0 777 0
XAU 8460000 8460000 8660000
XBJ 8000000 8000000 8660000
Cập nhật: 25/11/2024 16:45