Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Tại sao cổ phiếu Hòa Phát giảm dù được khối ngoại chuộng?

08:54 | 18/12/2019

Theo dõi PetroTimes trên
|
HPG được khối ngoại nắm nhiều nhất trong 11 tháng qua, nhưng lại mất giá 3% tính từ đầu năm dù VN-Index tăng gần 7%.

Theo FiinGroup, HPG là cổ phiếu được các quỹ ngoại nắm giữ nhiều nhất với hơn 139 triệu đơn vị, trị giá hơn 3.000 tỷ đồng trong 11 tháng đầu năm. Tuy nhiên, tính từ đầu năm, cổ phiếu này lại lệch nhịp so với thị trường.

Ba tháng đầu năm, HPG dịch chuyển cùng chiều với VN-Index. Sau khi giảm gần 12% vào cuối tháng 1, HPG bật tăng trở lại hơn gần 30%, lên mức đỉnh trong năm tại vùng giá trên 27.000 đồng (giá sau điều chỉnh) khi VN-Index trở lại ngưỡng nghìn điểm. Tuy nhiên, sau khi công bố kế hoạch kinh doanh năm 2019 với lợi nhuận giảm sâu và diễn biến bất lợi của giá quặng sắt trên thế giới, HPG quay lại xu hướng giảm.

Tới phiên gần nhất, cổ phiếu HPG giao dịch quanh ngưỡng 23.000, giảm gần 3% so với đầu năm trong khi VN-Index vẫn tăng gần 7%.

Diễn biến không mấy tích cực với cổ phiếu Hòa Phát được giới phân tích nhìn nhận đến từ câu chuyện kinh doanh, khi thách thức đang bủa vây doanh nghiệp giữ thị phần cao nhất ngành thép xây dựng.

Tại sao cổ phiếu Hòa Phát giảm dù được khối ngoại chuộng?
Diễn biến cổ phiếu HPG (đường xanh) và VN-Index (đường cam) kể từ đầu năm. Ảnh: Trading View

Kết thúc quý gần nhất, Hòa Phát thu gần 15.100 tỷ đồng doanh thu, tăng hơn 6% so với cùng kỳ nhưng lợi nhuận trước thuế chỉ đạt hơn 2.160 tỷ, giảm 24%. Kết quả này không bất ngờ, bởi đây cũng là thực tế của các doanh nghiệp thép gần đây.

Hoa Sen kết thúc niên độ tài chính 2018-2019 với lợi nhuận ròng giảm 12%, Thép Việt Ý lỗ quý thứ sáu liên tiếp, Thép Pomina báo lỗ gần 120 tỷ đồng trong quý III, còn Thép Nam Kim cũng giảm lãi chỉ bằng một phần ba cùng kỳ.

Theo Hiệp hội thép Việt Nam, sản lượng thép sản xuất và tiêu thụ trong 10 tháng đầu năm nay chỉ tăng một con số, giảm mạnh so với mức tăng 20-40% trong bốn năm gần nhất. Nguyên nhân chính là sự chững lại của thị trường xây dựng, đặc biệt là các dự án lớn chậm triển khai. Sức ép cạnh tranh giữa các nhà sản xuất cũng được đẩy lên cao do nguồn cung liên tục tăng, song nhu cầu từ thị trường lại không tăng tương xứng.

Tại sao cổ phiếu Hòa Phát giảm dù được khối ngoại chuộng?
Tăng trưởng tiêu thụ thép xây dựng Hòa Phát và các thành viên Hiệp hội thép Việt Nam. Ảnh: Báo cáo thường niên Hòa Phát năm 2018

Trong khi Hoa Sen chọn cách tái cấu trúc để giữ tỷ suất sinh lời, Hòa Phát chọn hướng đi ngược lại, đánh đổi lợi nhuận lấy thị phần. Từ đầu năm đến nay, giá thép của Hòa Phát đã giảm 10,8%, nhanh hơn các công ty cùng ngành khác như Pomina và VinaKyoei. Bằng chiến lược giá, sản lượng tiêu thụ của Hòa Phát vẫn tăng 15% trong 11 tháng, bất chấp đà giảm của thị trường chung. Thị phần thép xây dựng nhích nhẹ từ 24% lên 25% vào cuối quý III.

Tuy nhiên, hệ quả là các chỉ số đánh giá hiệu suất sinh lời đều giảm. Trong quý III, biên lợi nhuận gộp của Hòa Phát giảm xuống dưới 18%, so với mức 23% cùng kỳ năm 2018. Lũy kế 9 tháng đầu năm, tỷ lệ này cũng chỉ ghi nhận hơn 18,3%, so với mức xấp xỉ 22% cùng giai đoạn năm trước.

Vấn đề của thị trường, nếu nhìn rộng hơn, cũng mang lại một thách thức khác cho Hòa Phát khi công ty này đang dồn toàn lực vào đại dự án Dung Quất.

FPTS nhận xét, với vị trí địa lý của dự án Dung Quất, thị trường mục tiêu chính của Hòa Phát sẽ là khu vực miền Nam và miền Trung. Tuy nhiên trong ngắn hạn, nhóm phân tích cho rằng vấn đề suy yếu của thị trường bất động sản và chậm trễ trong đầu tư cơ sở hạ tầng có thể khiến nhu cầu từ thị trường chậm lại.

Cùng nhận định như FPTS, Công ty chứng khoán KIS cho rằng giai đoạn đầu của dự án Dung Quất sẽ tăng gấp đôi công suất thép dài của Hòa Phát lên 4,35 triệu tấn mỗi năm. Với nhu cầu thị trường, công suất tăng tương đương với 18% tổng mức tiêu thụ có thể khiến dư cung ngắn hạn.

Nếu tiếp tục chọn cạnh tranh bằng giá để giành thị phần, lợi nhuận của Hòa Phát sẽ còn bị ăn mòn. Tuy nhiên, thị trường không phải yếu tố duy nhất tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp đầu ngành thép xây dựng. Áp lực từ sự thay đổi cấu trúc nguồn vốn khi công ty gia tăng vay nợ để đầu tư vào Dung Quất đang ngày lộ rõ và tác động lớn hơn.

So với cuối năm 2016, khi chưa có dự án Dung Quất, dư nợ vay ngắn và dài hạn của Hòa Phát đến cuối quý III đã tăng gần 4 lần. Tổng quy mô nợ phải trả tới thời điểm này đạt gần 51.400 tỷ đồng.

Cơ cấu nợ phải trả chiếm 53% tổng nguồn vốn của Hòa Phát vẫn thấp hơn nhiều doanh nghiệp trong ngành và nằm trong ngưỡng an toàn, theo nhận định của nhiều công ty chứng khoán. Tuy nhiên, dư nợ tăng cao khiến chi phí lãi vay cũng tăng tương ứng, và điều này cũng tạo áp lực lên lợi nhuận.

Sau giai đoạn chững lại hai năm 2015 và 2016 khi dư nợ vay giảm mạnh, chi phí lãi vay của Hòa Phát tăng nhanh khi công ty tăng vay nợ đầu tư vào Dung Quất. Chi phí lãi vay trong 9 tháng đầu năm nay ghi nhận gần 666 tỷ đồng, cao hơn 23% so với cả năm 2018 và gấp gần ba lần trước khi đầu tư vào Dung Quất.

Dù đưa ra khuyến nghị mua và nắm giữ dài hạn với cổ phiếu HPG, FPTS trong báo cáo mới đây cũng lưu ý, với biến động mạnh của giá quặng sắt và triển vọng kém khả quan của ngành xây dựng, lợi nhuận sau thuế của HPG dự phòng năm 2019 và nửa đầu năm 2020 sẽ khó có sự tăng trưởng.

Theo VNE

Các quỹ EFT dự kiến mua ròng gần 4,4 triệu USD cổ phiếu ROS tuần này
Một năm biến động, ông Trịnh Văn Quyết đang có bao nhiêu tài sản?
Đẳng cấp vợ đại gia: Dự chi 2.200 tỷ đồng cho 1 thương vụ “chơi” chứng khoán
Bóng đá Việt Nam vô địch SEA GAMES, cổ phiếu các ông bầu đang diễn biến ra sao?
Liên tiếp tăng trần, PGD tăng hơn 36% chỉ trong 6 phiên giao dịch
Chớp thời cơ, đại gia Dương Ngọc Minh tính “ra tay” thương vụ cuối năm

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 87,000 ▼500K 89,000 ▼500K
AVPL/SJC HCM 87,000 ▼500K 89,000 ▼500K
AVPL/SJC ĐN 87,000 ▼500K 89,000 ▼500K
Nguyên liệu 9999 - HN 87,700 ▼200K 88,100 ▼200K
Nguyên liệu 999 - HN 87,600 ▼200K 88,000 ▼200K
AVPL/SJC Cần Thơ 87,000 ▼500K 89,000 ▼500K
Cập nhật: 04/11/2024 10:45
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 87.700 ▼300K 88.790 ▼360K
TPHCM - SJC 87.000 ▼500K 89.000 ▼500K
Hà Nội - PNJ 87.700 ▼300K 88.790 ▼360K
Hà Nội - SJC 87.000 ▼500K 89.000 ▼500K
Đà Nẵng - PNJ 87.700 ▼300K 88.790 ▼360K
Đà Nẵng - SJC 87.000 ▼500K 89.000 ▼500K
Miền Tây - PNJ 87.700 ▼300K 88.790 ▼360K
Miền Tây - SJC 87.000 ▼500K 89.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - PNJ 87.700 ▼300K 88.790 ▼360K
Giá vàng nữ trang - SJC 87.000 ▼500K 89.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 87.700 ▼300K
Giá vàng nữ trang - SJC 87.000 ▼500K 89.000 ▼500K
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 87.700 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 87.600 ▼300K 88.400 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 87.510 ▼300K 88.310 ▼300K
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 86.620 ▼290K 87.620 ▼290K
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 80.570 ▼280K 81.070 ▼280K
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 65.050 ▼230K 66.450 ▼230K
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 58.860 ▼210K 60.260 ▼210K
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 56.210 ▼200K 57.610 ▼200K
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 52.670 ▼190K 54.070 ▼190K
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 50.460 ▼180K 51.860 ▼180K
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 35.520 ▼130K 36.920 ▼130K
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 31.900 ▼110K 33.300 ▼110K
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 27.920 ▼100K 29.320 ▼100K
Cập nhật: 04/11/2024 10:45
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 8,680 ▼30K 8,880 ▼20K
Trang sức 99.9 8,670 ▼30K 8,870 ▼20K
NL 99.99 8,710 ▼30K
Nhẫn tròn ko ép vỉ T.Bình 8,700 ▼30K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 8,770 ▼30K 8,890 ▼20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 8,770 ▼30K 8,890 ▼20K
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 8,770 ▼30K 8,890 ▼20K
Miếng SJC Thái Bình 8,700 ▼50K 8,900 ▼50K
Miếng SJC Nghệ An 8,700 ▼50K 8,900 ▼50K
Miếng SJC Hà Nội 8,700 ▼50K 8,900 ▼50K
Cập nhật: 04/11/2024 10:45

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,272.65 16,437.02 16,964.44
CAD 17,723.79 17,902.82 18,477.27
CHF 28,472.68 28,760.28 29,683.12
CNY 3,462.43 3,497.40 3,609.63
DKK - 3,623.62 3,762.40
EUR 26,828.55 27,099.54 28,299.76
GBP 31,956.12 32,278.91 33,314.65
HKD 3,171.53 3,203.56 3,306.35
INR - 300.16 312.16
JPY 160.61 162.23 169.94
KRW 15.96 17.74 19.24
KWD - 82,341.84 85,634.28
MYR - 5,727.62 5,852.58
NOK - 2,258.91 2,354.83
RUB - 245.69 271.98
SAR - 6,718.02 6,986.64
SEK - 2,320.35 2,418.88
SGD 18,689.71 18,878.50 19,484.26
THB 661.23 734.70 762.84
USD 25,095.00 25,125.00 25,465.00
Cập nhật: 04/11/2024 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 25,130.00 25,144.00 25,454.00
EUR 26,988.00 27,096.00 28,194.00
GBP 32,026.00 32,155.00 33,112.00
HKD 3,189.00 3,202.00 3,305.00
CHF 28,741.00 28,856.00 29,717.00
JPY 162.13 162.78 169.84
AUD 16,333.00 16,399.00 16,889.00
SGD 18,786.00 18,861.00 19,384.00
THB 728.00 731.00 762.00
CAD 17,839.00 17,911.00 18,420.00
NZD 14,878.00 15,367.00
KRW 17.59 19.34
Cập nhật: 04/11/2024 10:45
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 25100 25100 25465
AUD 16336 16436 17008
CAD 17813 17913 18469
CHF 28777 28807 29600
CNY 0 3512.5 0
CZK 0 1040 0
DKK 0 3670 0
EUR 27059 27159 28031
GBP 32275 32325 33428
HKD 0 3280 0
JPY 163.34 163.84 170.35
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18 0
LAK 0 1.095 0
MYR 0 6027 0
NOK 0 2312 0
NZD 0 14959 0
PHP 0 415 0
SEK 0 2398 0
SGD 18770 18900 19623
THB 0 692 0
TWD 0 790 0
XAU 8700000 8700000 8900000
XBJ 8200000 8200000 8700000
Cập nhật: 04/11/2024 10:45