Top 10 game có thưởng khi tải về - game bài đổi thưởng trực tuyến

Soi "sức khỏe" của doanh nghiệp nông nghiệp

11:05 | 01/09/2023

26 lượt xem
Theo dõi PetroTimes trên
|
Doanh thu của doanh nghiệp nông nghiệp chỉ bằng 0,62% tổng doanh thu của hệ thống doanh nghiệp. Số lượng, chất lượng doanh nghiệp nông nghiệp còn rất khiêm tốn.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến hết ngày 31/12/2022, cả nước có 12.094 doanh nghiệp nông nghiệp trong tổng số 89.5876 doanh nghiệp cả nước đang hoạt động, chỉ chiếm gần 1,35% tổng số doanh nghiệp trên cả nước.

Soi
Tính đến 31/12/2022, số doanh nghiệp trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 1,35% tổng số doanh nghiệp của cả nước

Quy mô đầu tư vào nông nghiệp chủ yếu ở mức nhỏ và siêu nhỏ, chiếm đến 90%, doanh nghiệp có quy mô vừa chỉ chiếm 4,0% và tiếp đến là doanh nghiệp có quy mô lớn chiếm chưa đầy 6%.

TS. Vũ Mạnh Hùng - Vụ trưởng Vụ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ban Kinh tế trung ương - nhận định, sự phát triển của các doanh nghiệp nông nghiệp trong giai đoạn vừa qua còn khá khiêm tốn so với tiềm năng, lợi thế phát triển.

Sự phát triển khiêm tốn này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân chính là chưa có chính sách thực sự đủ mạnh để thúc đẩy sự phát triển của khu vực doanh nghiệp nông nghiệp.

TS. Vũ Mạnh Hùng phân tích, hiện nay, chính sách phát triển doanh nghiệp nông nghiệp chủ yếu tập trung vào hỗ trợ, ưu đãi đối với doanh nghiệp nông nghiệp như: hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng; hỗ trợ giao đất, cho thuê đất; ưu đãi tín dụng; hỗ trợ vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh; hỗ trợ về chế biến sản phẩm; khuyến khích, thu hút đầu tư tư nhân; hỗ trợ chuyển giao công nghệ mới.

Lĩnh vực hỗ trợ của chính sách như vậy được xem là khá toàn diện, tuy nhiên tính đồng bộ của chính sách, mức độ hỗ trợ của chính sách chưa tốt; đôi khi khâu tổ chức triển khai còn chậm, nguồn lực bố trí cho triển khai chính sách khá khó khăn nên các chính sách có mức hỗ trợ thấp lại tổ chức thực hiện một cách nửa vời nên hiệu quả, mức độ tác động đến sự phát triển của doanh nghiệp chưa lớn.

Đồng quan điểm về vấn đề này, theo theo TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương - mặc dù, những năm gần đây, một số doanh nghiệp nông nghiệp đang dần vươn lên giữ vai trò nòng cốt trong chuỗi giá trị nông sản, góp phần thúc đẩy nông nghiệp nông thôn phát triển và góp phần giải quyết vấn đề lao động việc làm cho người dân.

Số doanh nghiệp trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đã tăng gần 4%/năm trong giai đoạn 2017 - 2022. Tuy nhiên, số lượng, chất lượng doanh nghiệp nông nghiệp còn rất khiêm tốn.

Tính đến 31/12/2022, số doanh nghiệp trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 1,35% tổng số doanh nghiệp của cả nước. Tỷ lệ tương ứng trong số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp chỉ là 1,39%.

Quy mô của doanh nghiệp nhìn chung còn hạn chế. Theo quy mô lao động, số doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm 73,662% (dưới 10 lao động); số doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 23,88% (từ 10 - 200 lao động). Theo quy mô vốn, số doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ có số vốn dưới 50 tỷ đồng, chiếm tới 84,41%.

Hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp chủ yếu hiện nay vẫn ở dạng hộ sản xuất với hơn 9,2 triệu hộ. Xét về cơ cấu doanh nghiệp, thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy khoảng 90% doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp là doanh nghiệp tư nhân, còn lại là các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI.

Gần 50% doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; hơn 35% doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khai thác, nuôi trồng thủy sản; và hơn 15% trong lĩnh vực lâm nghiệp

Nhìn chung, hoạt động của doanh nghiệp nông nghiệp còn hạn chế, doanh thu của các doanh nghiệp nông nghiệp chỉ bằng 0,62% tổng doanh thu của hệ thống doanh nghiệp.

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nông nghiệp còn yếu kém, thể hiện ở các mặt sau: Doanh nghiệp nông nghiệp chưa đầu tư đầy đủ vào công nghệ và quản lý sản xuất; thị trường tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế và chưa được mở rộng; sản phẩm còn thiếu đa dạng, chất lượng sản phẩm còn hạn chế;…

Theo TS. Trần Thị Hồng Minh, những hạn chế về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nông nghiệp trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân trực tiếp đến từ các chính sách hỗ trợ, khuyến khích, thu hút đầu tư của Nhà nước.

Có thể nói rằng, hiện nay chưa có sự thống nhất ưu tiên đầu tư cho ngành nông nghiệp, chính sách khuyến khích chưa đủ mạnh để thu hút doanh nghiệp đầu tư, các doanh nghiệp khó tiếp cận đất đai. Thủ tục hành chính, sự hỗ trợ của quản lý nhà nước trong việc khởi nghiệp doanh nghiệp, tiếp cận các nguồn lực để đầu tư chưa được cải thiện.

Nông nghiệp là lĩnh vực đặc biệt quan trọng, là một “trụ đỡ” cho ổn định kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng sống cho người dân, góp phần phát triển kinh tế đất nước.

Do đó, để thúc đẩy sự phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào ngành nông nghiệp, TS. Trần Thị Hồng Minh cho rằng, cần tiếp tục thực hiện hiệu quả hơn nữa các chính sách hỗ trợ của Nhà nước.

Theo đó, cần tăng cường các chính sách về hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn cho doanh nghiệp nông nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp tạo điều kiện cho việc tiếp cận vốn tín dụng từ khu vực ngân hàng thương mại, từ Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, và từ Quỹ bảo lãnh tín dụng.

Tổ chức thực thi các chính sách hỗ trợ về tạo quỹ đất, quy hoạch các vùng đất sản xuất nông nghiệp, vùng nguyên liệu minh bạch, ổn định; có các chính sách tích tụ ruộng đất, tập trung đất đai, sớm hình thành thị trường, quyền sử dụng đất, đặc biệt là đất nông nghiệp để các doanh nghiệp có cơ hội phát triển và mở rộng sản xuất, đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, người nông dân và doanh nghiệp.

Tập trung đẩy mạnh cải thiện môi trường kinh doanh, đẩy mạnh rà soát, chuẩn hóa các thủ tục hành chính theo đó nghiên cứu cắt giảm 40 - 50% thủ tục hành chính hiện hành, không để tình trạng một mặt hàng phải chịu sự quản lý của quá nhiều đơn vị; chuyển đổi phương thức quản lý theo hướng tăng hậu kiểm, giảm tiền kiểm…. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, khung khổ pháp luật về đăng ký kinh doanh tạo thuận lợi cho doanh nghiệp nông nghiệp khi gia nhập thị trường.

Theo Báo Công Thương

Giải pháp tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam

Giải pháp tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam

Năng lực chủ động, phân tích thông tin và dự báo thị trường vẫn còn nhiều hạn chế. Cơ sở hạ tầng thương mại, hệ thống truy xuất nguồn gốc, quản lý khai thác chưa được thực hiện bài bản… Đó là nhận định được các chuyên gia, nhà nghiên cứu, doanh nghiệp đưa ra tại tọa đàm “Tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam” do Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và Cạnh tranh phối hợp với Vụ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Ban Kinh tế Trung ương) tổ chức ngày 29/8.

Giá vàng

DOJI Mua vào Bán ra
AVPL/SJC HN 79,000 81,000
AVPL/SJC HCM 79,000 81,000
AVPL/SJC ĐN 79,000 81,000
Nguyên liệu 9999 - HN 77,350 77,550
Nguyên liệu 999 - HN 77,250 77,450
AVPL/SJC Cần Thơ 79,000 81,000
Cập nhật: 04/09/2024 04:00
PNJ Mua vào Bán ra
TPHCM - PNJ 77.400 78.600
TPHCM - SJC 79.000 81.000
Hà Nội - PNJ 77.400 78.600
Hà Nội - SJC 79.000 81.000
Đà Nẵng - PNJ 77.400 78.600
Đà Nẵng - SJC 79.000 81.000
Miền Tây - PNJ 77.400 78.600
Miền Tây - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - PNJ 77.400 78.600
Giá vàng nữ trang - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - Đông Nam Bộ PNJ 77.400
Giá vàng nữ trang - SJC 79.000 81.000
Giá vàng nữ trang - Giá vàng nữ trang Nhẫn Trơn PNJ 999.9 77.400
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999.9 77.300 78.100
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 999 77.220 78.020
Giá vàng nữ trang - Vàng nữ trang 99 76.420 77.420
Giá vàng nữ trang - Vàng 916 (22K) 71.140 71.640
Giá vàng nữ trang - Vàng 750 (18K) 57.330 58.730
Giá vàng nữ trang - Vàng 680 (16.3K) 51.860 53.260
Giá vàng nữ trang - Vàng 650 (15.6K) 49.520 50.920
Giá vàng nữ trang - Vàng 610 (14.6K) 46.390 47.790
Giá vàng nữ trang - Vàng 585 (14K) 44.440 45.840
Giá vàng nữ trang - Vàng 416 (10K) 31.240 32.640
Giá vàng nữ trang - Vàng 375 (9K) 28.040 29.440
Giá vàng nữ trang - Vàng 333 (8K) 24.520 25.920
Cập nhật: 04/09/2024 04:00
AJC Mua vào Bán ra
Trang sức 99.99 7,635 7,820
Trang sức 99.9 7,625 7,810
NL 99.99 7,640
Nhẫn tròn k ép vỉ T.Bình 7,640
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng T.Bình 7,740 7,860
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng N.An 7,740 7,860
N.Tròn, 3A, Đ.Vàng H.Nội 7,740 7,860
Miếng SJC Thái Bình 7,900 8,100
Miếng SJC Nghệ An 7,900 8,100
Miếng SJC Hà Nội 7,900 8,100
Cập nhật: 04/09/2024 04:00
SJC Mua vào Bán ra
SJC 1L, 10L, 1KG 79,000 81,000
SJC 5c 79,000 81,020
SJC 2c, 1C, 5 phân 79,000 81,030
Vàng nhẫn SJC 99,99 1 chỉ, 2 chỉ, 5 chỉ 77,300 78,600
Vàng nhẫn SJC 99,99 0.3 chỉ, 0.5 chỉ 77,300 78,700
Nữ Trang 99.99% 77,250 78,200
Nữ Trang 99% 75,426 77,426
Nữ Trang 68% 50,831 53,331
Nữ Trang 41.7% 30,263 32,763
Cập nhật: 04/09/2024 04:00

Tỉ giá

Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng VCB
AUD 16,476.93 16,643.36 17,191.71
CAD 17,972.86 18,154.40 18,752.53
CHF 28,552.73 28,841.14 29,791.36
CNY 3,431.90 3,466.56 3,581.31
DKK - 3,624.00 3,765.93
EUR 26,832.82 27,103.86 28,327.84
GBP 31,917.54 32,239.94 33,302.15
HKD 3,106.12 3,137.50 3,240.87
INR - 295.45 307.52
JPY 166.07 167.74 175.91
KRW 16.11 17.90 19.55
KWD - 81,167.50 84,483.28
MYR - 5,690.78 5,819.77
NOK - 2,312.56 2,412.76
RUB - 258.81 286.74
SAR - 6,604.07 6,873.85
SEK - 2,377.63 2,480.66
SGD 18,595.23 18,783.06 19,401.90
THB 648.89 720.99 749.22
USD 24,660.00 24,690.00 25,030.00
Cập nhật: 04/09/2024 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Agribank
USD 24,700.00 24,710.00 25,050.00
EUR 27,024.00 27,133.00 28,258.00
GBP 32,139.00 32,268.00 33,263.00
HKD 3,126.00 3,139.00 3,244.00
CHF 28,808.00 28,924.00 29,825.00
JPY 167.38 168.05 175.81
AUD 16,597.00 16,664.00 17,177.00
SGD 18,752.00 18,827.00 19,382.00
THB 713.00 716.00 748.00
CAD 18,104.00 18,177.00 18,730.00
NZD 15,351.00 15,863.00
KRW 17.86 19.71
Cập nhật: 04/09/2024 04:00
Ngoại tệ Mua Bán
Tiền mặt Chuyển khoản
Ngân hàng Sacombank
USD 24710 24710 25050
AUD 16733 16783 17285
CAD 18255 18305 18756
CHF 29082 29132 29686
CNY 0 3474.7 0
CZK 0 1060 0
DKK 0 3713 0
EUR 27321 27371 28074
GBP 32561 32611 33263
HKD 0 3185 0
JPY 169.55 170.05 175.56
KHR 0 6.032 0
KRW 0 18.3 0
LAK 0 0.993 0
MYR 0 5887 0
NOK 0 2368 0
NZD 0 15375 0
PHP 0 410 0
SEK 0 2440 0
SGD 18900 18950 19501
THB 0 692.9 0
TWD 0 772 0
XAU 8000000 8000000 8100000
XBJ 7300000 7300000 7620000
Cập nhật: 04/09/2024 04:00